Kỳ 138 CUỘC CHIẾN GIỮA LÝ THÁI TỔ VÀ TỔ TIÊN ĐOÀN DỰ NƯỚC ĐẠI LÝ


CHƯƠNG 8
CHỐNG XÂM LƯỢC TỔNG HỢP
----------------------------------------

Kỳ 138
CUỘC CHIẾN GIỮA LÝ THÁI TỔ
VÀ TỔ TIÊN ĐOÀN DỰ NƯỚC ĐẠI LÝ

Đoàn Dự là nhân vật nổi tiếng trong truyện kiếm hiệp Kim Dung được nhiều người Việt Nam biết đến. Trong lịch sử, Đoàn Dự là vua thứ 16 nhà Đại Lý. Nhưng ít ai biết rằng Đại Lý đời vua thứ 7 đã có cuộc chiến khốc liệt với Đại Cồ Việt nước ta thời vua Lý Thái Tổ.

Đầu thế kỷ 11, khi mà nước Đại Cồ Việt vừa trải qua cuộc đổi ngôi từ họ Lê (tức nhà Tiền Lê) sang họ Lý, khi kinh thành Thăng Long mới vừa bước sang tuổi thứ tư với hàng loạt công trình đang xây dựng, một cuộc chiến tranh đã nổ ra với quy mô hàng chục vạn người. Chiến tranh giữa nước Đại Cồ Việt thời vua Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn và vương quốc Đại Lý là cuộc chiến mà ngày nay khá nhiều người trong chúng ta chưa được biết rõ.

Đại Lý là quốc gia của các tộc người Bạch (còn gọi là người Hạc Thác), người Di Lão (Lô Lô, Tày, Nùng, Thái …) có lãnh thổ nằm ở phần đất mà ngày nay tương ứng với tỉnh Vân Nam, tỉnh Quý Châu, một phần tỉnh Tứ Xuyên thuộc nước Trung Quốc. Đại Lý được lập nên bởi Đoàn Tư Bình vào năm 937. Vương quốc này được coi là quốc gia kế thừa nước Nam Chiếu, được lập nên vào nửa đầu thế kỷ thứ 8. Trong thời kỳ Nam Chiếu, nước này liên tục tổ chức những cuộc chinh phạt mở rộng lãnh thổ ra các hướng. Nhiều lần quân Nam Chiếu đã đánh vào đất Giao Châu (tên lãnh thổ nước ta và một phần Quảng Tây thời Bắc thuộc), khiến quân Đường phải nhiều phen vất vả mới đánh lui nổi. Đến thế kỷ thứ 11, nước Đại Lý nổi lên như một thế lực hùng mạnh trong khu vực với nền nghệ thuật, tôn giáo, thương mại phát triển và quân sự cũng khá mạnh, đủ khiến các nước lân bang như Thổ Phồn, Pagan, Tống… đều phải dè chừng.

Mâu thuẫn giữa Đại Cồ Việt và nước Đại Lý bắt nguồn từ việc tranh giành ảnh hưởng ở vùng mà ngày nay là tây bắc nước Việt Nam. Vào khoảng thế kỷ thứ 11, vùng này là nơi sinh sống chủ yếu của người Tày, người Nùng, người Thái. Thời bấy giờ, người Việt và người Tống thường gọi chung các sắc dân vùng biên giới giữa hai nước là người Man, hoặc người Lý, người Lão. Nằm giữa ba trung tâm quyền lực mạnh là Đại Cồ Việt, Đại Lý và Tống, các tù trưởng trong vùng phải lựa chọn cho mình một phe để thần phục. Biên giới giữa Đại Cồ Việt, Đại Lý, Tống cũng chưa được định hình rõ ràng mà liên tục co duỗi, phụ thuộc vào tiềm lực và khả năng thu phục các tù trưởng người Nùng của các bên.

Trước khi vương triều Lý thành lập, kinh đô nước Đại Cồ Việt đặt tại Hoa Lư. Theo đó, trung tâm nước ta cũng là vùng ven biển phía đông đồng bằng sông Hồng. Lúc này nước Đại Cồ Việt vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ phong kiến tản quyền lên nhà nước trung ương tập quyền, xu hướng ly khai của các thế lực cát cứ địa phương, các nhóm sắc tộc vẫn còn rất lớn. Các vua thường phải bận đi đánh dẹp liên miên trong nước. Do đó, việc cai trị ở các miền biên viễn phía tây bắc có phần lơi lỏng. Các tù trưởng ở các châu Vị Long (thuộc Chiêm Hóa, Tuyên Quang ngày nay), châu Đô Kim (thuộc Hàm Yên, Tuyên Quang ngày nay), châu Bình Nguyên (thuộc Hà Giang)… nắm quyền tự trị rất cao, tùy tiện quản lý địa hạt theo ý mình. Nhân đó, người Đại Lý thường xuyên xuất hiện trong các vùng ảnh hưởng của Đại Cồ Việt để trao đổi, buôn bán mà không thông qua triều đình nước ta. Nhiều phần đất ở vùng tây bắc dần dần trở thành vùng ảnh hưởng của nước Đại Lý trên thực tế.

Đến khi Lý Thái Tổ, tức vua Lý Công Uẩn lên ngôi, việc triều chính có nhiều biến chuyển mới. Thế nước Đại Cồ Việt dâng cao với kinh đô mới và một quân đội được tổ chức bài bản, chặt chẽ hơn trước. Việc trao các trọng trách về quân sự cho các thân vương, hoàng tử đã giúp vua Lý Thái Tổ dễ dàng hơn trong kiểm soát quân đội, ngăn ngừa nguy cơ phản loạn. Mệnh lệnh của vua được thông suốt từ trên xuống dưới. Bên cạnh đó, quân Đại Cồ Việt trong vốn thường xuyên phải đánh dẹp các lực lượng trong nước và đánh giặc ngoài (kháng chiến chống Tống 981, chiến tranh với Chiêm Thành những năm 982, 989 …) nên rất thiện chiến. Với sức mạnh và vị thế mới, triều đình Đại Cồ Việt không còn dễ dãi trong vấn đề biên giới như trước mà đã có những hành động cứng rắn đối với các tù trưởng khinh nhờn triều đình và cả người Đại Lý tự tiện xâm nhập vào vùng ảnh hưởng của mình.

Vào cuối năm 1012, Lý Thái Tổ được tin người Đại Lý đem ngựa đến buôn bán ở bến Kim Hoa, châu Vị Long rất đông đúc dưới sự bảo trợ của tù trưởng Hà Trắc Tuấn mà không xin phép triều đình Đại Cồ Việt. Để thể hiện uy quyền của triều đình, vua sai quân đến đánh bắt các thương nhân và tùy tùng người Đại Lý, tịch thu đến 1 vạn con ngựa. Sự kiện này ngoài việc thể hiện quyết tâm bảo vệ vùng ảnh hưởng của nước Đại Cồ Việt, còn là một sự thách thức công khai của đối với nước Đại Lý. Thông điệp của vua Lý Thái Tổ rất rõ ràng, rằng nước Đại Cồ Việt có đã đủ sức mạnh và quyết tâm để thẳng thừng đối đầu với Đại Lý, hòng bảo vệ đất đai và chủ quyền của mình.

Nước Đại Lý thời bấy giờ dưới sự cai trị của vua Tuyên Túc đế Đoàn Tố Liêm đang trong thời kỳ hưng thịnh, tất nhiên không dễ dàng bỏ qua chuyện này. Vua Đại Lý ngay sau đó đã chuẩn bị cho việc trả đũa. Năm 1013, tù trưởng châu Vị Long là Hà Trắc Tuấn vì muốn được thoải mái ngả về phe Đại Lý, đã khởi binh chống lại triều đình nhà Lý. Không bỏ qua cơ hội này, vua Đại Lý đã điều động binh mã, ước hẹn liên thủ với Hà Trắc Tuấn, mưu đồ đánh tách châu Vị Long ra khỏi lãnh thổ Đại Cồ Việt để nhập vào đất của Đại Lý, đồng thời lấy Vị Long làm chỗ đứng chân mà chiếm thêm các châu khác ở vùng tây bắc nước Đại Cồ Việt. Trước tình hình đó, vua Lý Thái Tổ đã quyết định thân chinh để đánh Hà Trắc Tuấn trước khi quân Đại Lý kịp tiến sang. Hà Trắc Tuấn quân ít không thể địch nổi quân đội của Lý Thái Tổ, nên dẫn quân tránh vào núi, ngầm cho người đi kêu gọi các dân người Tày, Nùng, Thái quanh vùng cùng đứng lên chống lại triều đình nhà Lý.

Quốc Huy



Nhận xét

Bài đăng phổ biến