CÁI GHEN NHÂN TỪ CỦA HOẠN THƯ
CÁI GHEN NHÂN TỪ
CỦA HOẠN THƯ
Không một người Việt Nam nào mà không biết tên
Hoạn Thư và cái “đức” ghen của nàng. Nhưng có lẽ ít người tìm hiểu sâu xa về
cái “đức” ghen đó. Ai cũng cho rằng Hoạn Thư là con người thâm độc, nham hiểm,
tàn nhẫn khi hành hạ Thúy Kiều. Vì thế, tên Hoạn Thư đồng nghĩa với sự ghen
tuông độc ác của một người đàn bà.
Trong thập niên 50, đầu 60, ở miền Nam Việt
Nam, báo chí đã tường thuật nhiều vụ đánh ghen rất khủng khiếp. Có người thì đốt
cho chồng cháy như cây đuốc (mà danh ca Trần Văn Trạch đã có bài hát “Đốt hay
không đốt”), và có kẻ thì tạt át xít vào mặt tình địch, hủy hoại nhan sắc xinh
đẹp của một cô vũ nữ… Như vậy, so với cái ghen của Hoạn Thư còn độc ác gấp ngàn
lần. Thế mà không ai “nổi tiếng” bằng Hoạn Thư. Và người đời vẫn chỉ nhớ đến Hoạn
Thư mỗi khi nói tới ghen tuông.
Thật ra, nếu tìm hiểu kỹ hơn về cách đánh ghen
của Hoạn tiểu thư trong Đoạn Trường Tân Thanh, chúng ta sẽ thay đổi thái độ với
nàng, chứ không khắc nghiệt như hiện nay. Điều mà những người đọc Kiều ít quan
tâm tới là tâm trạng giận chồng của Hoạn Thư. Thoạt tiên, nàng không hề thù
ghét Kiều :
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình.
Sở dĩ Hoạn Thư không muốn “rước lấy tiếng ghen”
vì lễ giáo của nhà Nho không phản đối việc người đàn ông có thể đèo bòng tới
“năm thê, bảy thiếp” miễn phải thông báo cho bà chính thất biết. Bà chính thất
là “vợ cái con cột” nắm quyền “nội tướng” (tương đương với bộ trưởng Nội vụ)
trong gia đình. Ngoài ra, Hoạn Thư không dám ghen vì nàng còn có một nhược điểm
quan trọng là chưa có con để nối dõi tông đường.
Khi Thúc Sinh đang đắm đuối trong tình yêu mới
được chính quan phủ sở tại ở Lâm truy se duyên, Kiều sáng suốt nhận ra rằng
chàng Thúc phải qua thủ tục “thông báo” cho đúng lễ nghi :
Xin chàng liệu kíp lại nhà,
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mực giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông!
Dù không muốn xa Kiều, nhưng thấy lời khuyên của
nàng rất hợp lý, chàng Thúc “đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang”. Rồi khi
tiễn biệt, Kiều còn nhắc nhở :
Nàng rằng: Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng.
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước hãy nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất tình,
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi.
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi,
Lại mang những việc tày trời đến sau.
Nhưng khi về đến nhà, Thúc Sinh lại quên hết lời
dặn dò của Kiều, chỉ vì Hoạn Thư chẳng đả động gì tới chuyện “vợ lẽ” :
Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Có lẽ nàng Hoạn muốn chồng phải lên tiếng trước.
Nhưng Thúc lại không hiểu như vậy, nên :
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Phải chăng vì chờ mãi không thấy chồng đề cập tới
chuyện có vợ nhỏ ở Lâm Truy, Hoạn Thư đã khéo léo mở hé một cánh cửa cho chồng
bước vào :
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông dài,
Bướm ong lại đạt những lời nọ kia.
Thiếp dù vụng, chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười.
Nếu nhân dịp này, Thúc mạnh dạn cho biết chàng
mới có vợ nhỏ, chắc chắn Hoạn phải đành lòng chấp thuận. Nhưng, tiếc thay, Thúc
lại ngu xuẩn nghĩ :
Thấy lời thủng thẳng như chơi,
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Thế rồi chàng ở nhà cả năm trời mà không nói được
gì. Khi chàng nhấp nhỏm muốn ra đi, nhưng lại nhút nhát không dám ngỏ lời. Hoạn
Thư biết ý, khôn khéo lên tiếng trước:
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm, mây bạc xa xa,
Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn.
Bất ngờ được vợ cho phép, Thúc mừng quá, bèn :
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Thế là bao nhiêu lời dặn dò, cảnh cáo của Thúy
Kiều thành vô ích hết. Cái mục đích về để “thông báo” không được thực hiện.
Vì không được chính thức thông báo, Hoạn Thư
bây giờ có quyền thi hành kế hoạch riêng của mình với sự tính toán chu đáo.
Kế hoạch của Hoạn Thư là cho một đội “biệt
kích” chớp nhoáng vượt biển sang Lâm Truy bắt cóc Thúy Kiều đem về Vô Tích để
hành hạ anh chồng phản bội cho bõ ghét. Bọn Khuyển, Ưng, tay sai của họ Hoạn,
đã thành công mỹ mãn trong vụ bắt cóc này. Chúng còn khôn khéo đánh tráo một
cái xác vô thừa nhận ở bên sông để làm lạc hướng nhà họ Thúc. Chúng không đưa
Thúy Kiều thẳng về nhà Hoạn Thư mà đưa về cho phu nhân, mẹ Hoạn Thư, đánh phủ đầu
và dạy nghề làm tôi tớ. Khi Kiều đã trở thành một thị tì quen việc, Hoạn Thư mới
đưa tình địch về nhà mình. Nhưng nàng ghen thì ít mà giận chồng thì nhiều nên đối
với Kiều cũng không khắc nghiệt quá đáng. Một hôm, nàng hỏi đến tài đánh đàn của
Kiều :
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người !
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Như vậy, rõ ràng Hoạn Thư không giống những người
đàn bà đánh ghen khác. Nàng đã có lòng khoan nhân với tình địch. Những người (cả
đàn ông lẫn đàn bà) đang trong cơn ghen, thấy tình địch là muốn băm vằm, đâm
chém cho hả cơn ghen. Thế mà Hoạn Thư lại “thương tài” tình địch và còn bớt
nghiêm khắc đi vài phần. Như vậy không phải là cái ghen bình thường của những
phụ nữ khác. Có thể nói nàng là một người đàn bà hiếm có trên cõi đời này.
Trong khi đó, Thúc Sinh đi đường bộ về đến Lâm
truy thì Thúc ông đã lo xong việc tang lễ cho Kiều (thực ra là cái thây vô chủ)
:
Lễ thường đã đủ một hai,
Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống, nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha, đến trung đường,.
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Thúc vật vã khóc than, rồi nhờ thầy phù thủy
đánh đồng thiếp xuống âm phủ tìm Kiều. Thầy pháp xuất thần một lát rồi trở về
cho biết Kiều còn sống và phải đợi một năm nữa hai người mới được gặp nhau,
nhưng :
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay.
Nửa tin nửa ngờ, chàng khắc khoải sống trong nỗi
thương nhớ Kiều khoảng một năm trời thì nguôi ngoai. Nhớ nhà, chàng trở về Vô
Tích với Hoạn Thư. Sau khi hai vợ chồng hàn huyên, Hoạn cho gọi Kiều ra. Lúc đó
hai người mới “tá hỏa tam tinh” .
Nhà hương cao cuốn bức là,
Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa.
Phải rằng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc sinh ?
Bây giờ tình mới tỏ tình,
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai!
Còn Thúc thì hoảng sợ vô cùng :
Sinh đà phách lạc hồn xiêu,
Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!
Cả hai đều không dám trái lời Hoạn Thư, nên kẻ
thì :
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
người thì :
Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Bây giờ đến màn đánh ghen của Hoạn Thư. Nàng
sai bày tiệc rượu, gọi là tiệc “tẩy trần” và bắt Kiều hầu rượu :
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.
Thương người yêu bị hành hạ,
Thúc cáo say, từ chối. Hoạn Thư dọa đánh Kiều, chàng đành “chén mời phải ngậm bồ
hòn ráo ngay.” Sau đó, Hoạn Thư còn bắt Kiều đàn cho Thúc nghe :
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan
nát lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong
khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt
sương.
Nhưng khi Kiều bị Hoạn Thư thét
mắng về tội làm Thúc buồn, Thúc lại phải
Vội vàng gượng nói gượng cười cho
qua.
Màn đánh ghen của Hoạn Thư đến
đây là hết :
Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam
tâm.
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm,
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
Như vậy cuộc đánh ghen quá nhẹ
so với bất cứ cuộc đánh ghen nào khác trên cõi đời này. Sau trận đánh ghen nhân
từ, rất trí tuệ và độc đáo của Hoạn Thư, Kiều tiếp tục làm bổn phận của một thị
tì, nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ buồn rầu. Hoạn Thư động lòng mới hỏi nguyên do. Kiều
thưa:
Lựa lời nàng mới thưa qua,
Phải khi mình lại xót xa nỗi
mình.
Hoạn Thư bèn nhờ chồng hỏi lại
cho rõ chuyện. Kiều dâng lên một lá đơn :
Cúi đầu quì trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.
Diện tiền trình với tiểu thư,
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút
tình.
Liền tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: Tài nên trọng mà tình nên
thương!
Ví chăng có số giầu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên
!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời.
Sau đó, Hoạn chiều theo ý Kiều
mà cho nàng được đi tu :
Tiểu thư rằng: Ý trong tờ,
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa
không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước
ra.
Điều này chứng tỏ Hoạn Thư rất rộng
lượng với Kiều. Ngoài ra, Hoạn Thư làm như vậy cũng là để giữ thể diện cho bản
thân và cho gia đình vì Kiều không phải là một loại con hầu thông thường. Vì
hoàn cảnh éo le, nàng đã trở thành một loại nô lệ cho nhà họ Hoạn. Ngay lúc đầu,
Hoạn bà đã nói rõ :
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế
này!
Rồi chính Hoạn Thư cũng xác nhận
như vậy :
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài…
Bây giờ Hoạn cho Kiều đi tu,
tình trạng nô lệ vẫn còn nhưng được nhẹ bớt đi rất nhiều. Vì thế, nhân lúc vợ vắng
nhà, Thúc sinh lẻn ra “Quan Âm các” thăm Kiều, nàng đã cầu khẩn xin Thúc:
Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu.
Trong khi hai người đang kể lể,
than khóc thì Hoạn Thư trở về. Nhưng nàng không xuất hiện ngay :
Hoa rằng: Bà đến đã lâu,
Dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở
than.
Ngăn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Vụ “nghe lén” này đã làm Hoạn
Thư an tâm, không còn sợ mất chồng nữa, vì Thúc đã dứt khoát cho Kiều biết dù
còn thương nàng, chàng cũng không thể “lên thác xuống ghềnh” với nàng được :
Đã cam tệ bạc với tình,
Chúa xuân để tội một mình cho
hoa.
Thấp cơ thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,
Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh.
Quản chi lên thác xuống ghềnh,
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
Tông đường chút chửa cam lòng,
Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
Thẹn mình đá nát vàng phai,
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
và chàng còn khuyên Kiều trốn đi :
Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà
thôi.
Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước
non?
Hoạn Thư thấy cuộc đánh ghen của mình đã đạt kết quả tốt đẹp, nên khi xem
Kiều viết Kinh thì tỏ ra vui vẻ :
Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan đình nào thua !
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
Nghìn vàng thực cũng nên mua lấy tài.
Phải nói rằng chưa có một người đàn bà nào lại
khen ngợi tình địch đến như vậy. Vì thế, khi Kiều báo ân, trả oán, không thể trừng
phạt nổi Hoạn Thư mà phải tha kẻ thù của mình. Trong cuộc báo ân, trả oán của
Kiều, Hoạn Thư là tội phạm đứng đầu sổ :
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Ai cũng tưởng Hoạn nương sẽ phải lãnh một hình
phạt rất nặng nề, không bị băm vằm thì cũng bị đánh nhừ xương. Nhưng, sau khi
nghe Hoạn trình bày, Kiều phải tha cho nàng :
Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều được ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?
Trước những lý lẽ vững chắc đó, Kiều đành nói :
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã long tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Hai chữ “nhỏ nhen” chứng tỏ rằng Thúy Kiều cũng
biết Hoạn Thư đã dễ dãi và rất rộng lương với mình, nên không có lý do gì mà
hành hạ kẻ thù. Hay nói một cách khác Kiều hiểu Hoạn Thư không thực sự đánh
ghen mà chỉ muốn “dằn mặt” Thúc Sinh vì cái tội có vợ nhỏ mà không “thông báo”
cho đúng phép tắc. Hoạn đã nói rõ điều đó khi về bàn tính với mẹ :
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: ngứa ghẻ hờn ghen,
Xấu chàng mà có ai khen chi mình.
Đến đây chúng ta có thể nói rằng nếu Hoạn Thư
đánh ghen (như người ta vẫn gán cho nàng) thì cuộc đánh ghen đã rất nhân từ, độ
lượng, không giống những vụ đánh ghen độc ác, tàn nhẫn khác. Riêng chúng tôi
nghĩ rằng Hoạn Thư muốn hành hạ Thúc Sinh, nhưng luân lý ngày xưa không cho
phép vợ được hỗn láo, lăng loàn với chồng. Hoạn phải chọn Kiều để hành hạ vì biết
rằng Thúc sẽ đau khổ hơn chính chàng bị hành hạ. Và Hoạn Thư đã đạt mục đích:
Thúc không những đau khổ vô cùng mà còn đành phải “cắn răng bẻ một chữ đồng làm
hai”. Hoạn Thư còn mong gì hơn nữa khi đã dành được chồng khỏi tay tình địch.
Nàng đã mãn nguyện nên khi Kiều lấy trộm chuông vàng khánh bạc lẻn trốn đi,
không sai người đuổi bắt lại.
Tạ Quang Khôi
Nhận xét
Đăng nhận xét