MỒ CHA KHÔNG KHÓC KHÓC ĐỐNG MỐI...

MỒ CHA KHÔNG KHÓC
KHÓC ĐỐNG MỐI...

Tục ngữ “Mồ cha chẳng khóc khóc đống mối; mồ mẹ chẳng khóc khóc bối bòng bong” khá thông dụng và dường như không có gì cần phải bàn cãi về nội dung, ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, xét cách giải thích của các nhà biên soạn từ điển lại thấy vấn đề không phải như vậy.

          - “Từ điển thành ngữ - tục ngữ -điển tích Việt Nam” (Nhóm biên soạn Lê Văn Đức, Hiệu đính Lê Ngọc Trụ, xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, gọi tắt là Lê Văn Đức): “Mồ cha chẳng khóc, khóc đồng mối thng [thành ngữ - HTC chú thích]. Con người dầu tình cảm dồi dào mà dùng lầm chỗ, thì sau này, tình cảm ấy không còn nguyên như trước. Một người đã trung thành với kẻ xấu, một người đã đem hết chân tình mà thương kẻ bất trinh thì dầu về sau, gặp được bạn tốt hay gái hiền, tình cảm cũng đã sứt mẻ mà không còn đằm thắm như trước.đt (điển tích - HTC chú thích). Người kia sinh tại nước Yên, lớn lên sang nước Sở; lúc già trở về xứ cũ. Khi đi ngang qua nước Tấn, bạn cùng đường chỉ vào mà nói: “Đây là nước Yên”. Người ấy ngùi ngùi đổi sắc mặt. Chỉ vào nền xã, anh bạn bảo: “Đây là nền xã làng anh”. Anh ta ngậm ngùi than thở. Chỉ một nhà bên đường, người bạn bảo “Đây là nhà cha anh”. Anh ta rơm rớm nước mắt. Chỉ vào gò mối bảo: “Đây là mồ cha anh”. Anh ta bụm mặt khóc oà. Cả bọn đều cười rồ lên, khiến anh ta lấy làm bẽn lẽn. Nhưng khi về đến nước nhà thật, trước mồ mả ông cha thật, anh ta hờ hững, không còn được như trước nữa”.

          - “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010, gọi tắt là Nguyễn Đức Dương): “Mồ cha chẳng khóc khóc đống mối; mồ mẹ chẳng khóc khóc bối bòng bong. Mồ cha chẳng khóc, lại khóc mấy nấm đất do mối đùn; mồ của mẹ chẳng khóc, lại khóc mấy cái búi bòng bong. Hay dùng để chê trách những kẻ quá tin vào lời đám thầy địa lý/thầy cúng tới độ chỉ đi than khóc các thứ vớ vẩn, mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới mồ mả của cha mẹ mình”.

          “Bối bòng bong” được Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương chú thích là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết”.

          -“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân - NXB Văn học - 2016): Mồ mẹ không khóc, khóc mối bòng bong (bòng bong là đám xơ tre vót ra và rối) như câu: Mồ cha không khóc khóc đống mối”. Mục “Mồ cha không khóc khóc đống mối (đống mối là đống đất do mối đùn lên) Chê người tha thiết đến một việc không phải phận sự của mình)”.

          Sau đây, chúng tôi xin đưa ra lời nhận xét về cách giải thích của các nhà biên soạn từ điển.

          - Với Lê Văn Đức, việc gắn ý nghĩa câu tục ngữ với tích “người nước Yên” bên Tàu, theo chúng tôi là lạc đề. Bởi dù có lúc “người nước Yên” kia bị lừa, khóc đống mối, tưởng đống mối là mộ cha mình, nhưng câu chuyện này không nhằm chê bai sự lầm lẫn ấy, mà nói lên đặc điểm con người ta: cùng một sự việc xảy ra, cảm xúc bột phát tự nhiên lúc ban đầu rất khó lặp lại. Do đó cách giải thích “Con người dầu tình cảm dồi dào mà dùng lầm chỗ, thì sau này, tình cảm ấy không còn nguyên như trước” chỉ phù hợp khi gắn với câu chuyện “người nước Yên” hồi hương, chứ không phải là ý nghĩa của câu tục ngữ Việt “Mồ cha chẳng khóc, khóc đồng mối”.

          - Cách giảng của Nguyễn Đức Dương đúng hướng hơn, nhưng lại có “vấn đề” về cách hiểu nghĩa đen và nghĩa bóng.

          Thứ nhất: “bòng bong” không phải là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết”. Xơ và toàn bộ cái đũa tre cắm trên bát cơm cúng gọi là “đũa bông” chứ không phải là“bòng bong”. Còn phoi tre (kiểu như phoi bào nhưng dài mà mảnh hơn, quăn hơn) do người ta vót nan tre, nứa để đan đồ đựng rồi vò thành đống cũng gọi là “bòng bong”, nhưng không phải là “bòng bong” trong câu tục ngữ đang xét. Có câu “Rối như búi bòng bong” cơ mà! Mấy cái xơ của đũa tre (cắm trên bát cơm cúng) vót ra tuy cong tít nhưng một đầu vẫn dính vào chiếc đũa nên xơ nào ra xơ ấy (tức có đầu mối) chứ đâu có rối?

          Thực ra, “bòng bong” trong câu tục ngữ là một loại dây leo, hay mọc ở các bụi rậm (đặc biệt là những nơi đất mối đùn), mầu nâu, mảnh như sợi miến mà dai, quấn nhằng nhịt vào nhau (phương ngữ Thanh Hoá gọi là dây “tưng tứng”). Sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” (Đỗ Tất Lợi) chép về loại “bòng bong” này như sau: “THÒNG BONG 長葉海金沙 [trường diệp hải kim sa-HTC phiên âm] còn gọi là bòng bong, dương vong, thạch vĩ dây. Tên khoa học Lygodium flexuosum Sw. Thuộc họ Thòng bong Schizaeaceae”. Sách này tiếp tục mô tả: “Thòng bong là một loại quyết có hiệp rất dài, mọc leo. Thân rễ bò, lá dài (...). Mọc phổ biến ở các bụi rậm, bờ rào. Thu hái gần như quanh năm...”.

          Ở thôn quê, người đi kéo tép đồng bằng te, thường bứt những sợi dây bòng bong ở bụi bờ phủ lên trên chiếc rá đựng tép. Mục đích là khi hất tép từ chiếc te vào rá, thì tép vẫn lọt xuống bởi các kẽ hở của búi bòng bong, nhưng tép lại không nhảy ra được do vướng búi bòng bong nhằng nhịt kia. Nông dân còn dùng cả búi lớn bòng bong, cuộn tròn lại để cọ rửa dụng cụ cày bừa, hoặc kì cọ, tắm rửa cho trâu sau buổi cày. Sợi bòng bong dai, dài, đan quấn vào nhau thành cái búi cọ rửa rất bền, tiện lợi, dùng lâu dần thì đen bóng. Thành ngữ “Rối như bối bòng bong” chính là nói đến loại “bòng bong” này.
           
          Trở lại với câu tục ngữ. Cái tổ mối đùn nó lùm lùm gần giống như một nấm  mồ vô chủ. Còn cái bụi rậm nhằng nhịt những búi (bối) bòng bong cũng tựa như một ngôi mộ bị thất lạc, lâu ngày hóa hoang rậm. Thế nên, ông thầy bói đi tìm mộ, hoặc người đi tìm mộ thất lạc cứ ngỡ mồ mả tổ tiên ông bà bấy lâu không ai chăm sóc, nên gia chủ mới nhận ngay cái tổ mối, bối bòng bong ấy mà khóc lóc, hương khói khấn vái. Nếu hiểu như Nguyễn Đức Dương “bòng bong” là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết”, thì lúc này con cháu đang than khóc chung quanh quan tài, làm sao có thể nhầm ra mộ tổ tiên người khác được? Mà chết chưa chôn thì lấy đâu ra mộ?

           Còn nếu hiểu “bòng bong là đám xơ tre vót ra và rối” như cách giải thích của GS Nguyễn Lân, thì “đám xơ tre” ấy thường được phơi ngoài sân, hè cho khô để nhóm bếp, chẳng có lí nào lại nhầm với “mộ mẹ” của ai đó bị thất lạc được. Cách giải thích của GS Nguyễn Lân, ngoài hiểu sai nghĩa đen của “bòng bong”, thì cách giảng nghĩa bóng “Chê người tha thiết đến một việc không phải phận sự của mình” cũng quá chung chung.

          Theo chúng tôi, câu tục ngữ “Mồ cha không khóc, khóc đống mối, mồ mẹ không khóc, khóc bối bòng bong” xuất phát từ thực tế nghĩa đen là xưa kia do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chiến tranh, loạn lạc, hoặc trải qua nhiều đời, mộ phần của cha ông thường bị thất lạc, mất dấu tích. Bởi vậy nhiều trường hợp, người ta phải nhờ vào thầy bói đi tìm mộ, hoặc tự đi tìm mộ.

          Với thầy bói, vì muốn cho xong việc nên có khi thầy chỉ đại vào đống mối, hay bụi bòng bong rậm rạp nào đó giông giống cái mộ để gia chủ lấy cơ sở hương khói, khấn vái. Có những nhà mộ tổ tiên bị mưa gió bào mòn, mất dấu, không xác định được toạ độ chính xác. Khi thấy đống mối đùn, hoặc cái gò cao cây cối rậm rạp ở gần khoảng đất nhớ chừng chừng, thì cứ ngỡ đó chính là mộ tổ tiên. Sau một thời gian hướng khói, khấn vái, đến khi tình cờ (như dời chuyển mộ, cải táng) mới té ngửa là lâu nay “khóc đống mối”, “khóc bối bòng bong”. Nghĩa là câu chuyện không phải “Hay dùng để chê trách những kẻ quá tin vào lời đám thầy địa lý/thầy cúng tới độ chỉ đi than khóc các thứ vớ vẩn, mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới mồ mả của cha mẹ mình”. Bởi “mồ mả của cha mẹ mình” có bị thất lạc thì mới phải nhờ đến thầy đi tìm, chứ đâu phải có mồ mả sờ sờ ra đấy nhưng “chẳng thèm ngó ngàng”?

          Về nghĩa bóng, tục ngữ thường được dùng để mỉa mai, chê cười, phê phán thói “thấy người sang bắt quàng làm họ”, nhận lầm nguồn gốc tổ tông, hoặc “thương vay, khóc mướn”, tức thương xót không phải lối, thương xót không đúng chỗ; tôn thờ, dành tình cảm xót thương sâu nặng cho đối tượng không xứng đáng, không liên quan gì đến huyết thống, hay quan hệ họ hàng với mình; trong khi đó, tổ tiên, dòng tộc của mình thì lại không quan tâm, để ý.

HOÀNG TUẤN CÔNG

Nhận xét

Bài đăng phổ biến