Kỳ 130 -LIỄU THĂNG BỊ CHÉM TẠI CHI LĂNG PHÓ TƯỚNG LÊN THAY CŨNG BỎ MẠNG
Kỳ 130
LIỄU THĂNG BỊ CHÉM TẠI CHI LĂNG
PHÓ TƯỚNG LÊN THAY CŨNG BỎ MẠNG
Đầu tháng 10.1427, 10 vạn quân Minh dưới trướng Liễu Thăng ồ ạt vượt
biên tiến vào địa giới nước ta. Ngày 8.10.1427, quân Minh đánh ải Pha Lũy. Trần
Lựu là vị tướng đầu tiên của nghĩa quân Lam Sơn giao chiến với Liễu Thăng, mở
màn chiến dịch Diệt Viện. Quân ta theo kế hoạch đã định trước, chỉ đánh cầm chừng
rồi lần lượt rút bỏ ải Pha Lũy, thành Khâu Ôn để nuôi chí khinh nhờn của địch.
Những trại nhỏ mà quân Lam Sơn dựng lên trước đó ở biên ải, cũng đều đánh chiếu
lệ rồi rút đi cả. Liễu Thăng thắng dễ mấy trận, nhanh chóng có được thành Khâu
Ôn làm chỗ đứng chân, quả nhiên sinh lòng coi thường quân Lam Sơn.
Vừa khi quân Minh tiến vào thành Khâu Ôn, thì thư “cầu hòa” của Nguyễn
Trãi cũng được đưa đến. Liễu Thăng ngông cuồng không thèm đọc thư mà cho người
chuyển thẳng lên vua Minh, rồi tiếp tục điều quân tiến lên. Đúng như tiên liệu
của tướng lĩnh Lam Sơn rằng “Quân đi hàng năm trăm dặm mà chỉ vội nhằm lấy
lợi thì viên thượng tướng tất phải kiệt quệ” (theo Cương Mục), quân Minh
đang cần tiến gấp để kịp cứu viện cho các thành của chúng trong nội địa, nên
các hành động của giặc rất gấp gáp, không có sự trù tính thận trọng. Khi quân
Minh vào đất của ta, các tướng Lương Minh, Lý Khánh đều sinh bệnh. Điều đó cho
thấy thật sự quân Minh đã phải trải qua những cuộc hành quân vất vả.
Trận Chi Lăng – Liễu Thăng cụt đầu
Trước sự kiêu căng lộ ra cả nét mặt, lời nói của Liễu Thăng thì chính
trong hàng ngũ tướng lĩnh quân Minh cũng sinh lo ngại. Bọn Lễ bộ lang trung Sử
An, Chủ sự Trần Dung bàn với Thượng thư Lý Khánh:
“Xem lời lẽ, sắc mặt của chủ tướng [chỉ Liễu Thăng], có vẻ kiêu.
Kiêu là điều tối kỵ của binh gia. Vả lại bọn giặc nguỵ trá, hoặc có thể làm ra
vẻ yếu để dụ chúng ta. Huống tỷ thư dụ rõ ràng là phải phòng ngừa giặc đặt phục
binh. Đây là phút an nguy, Ngài nên nói gấp.”
Bấy giờ quân Minh đã tiến đến Ải Lưu (thuộc huyện Chi Lăng, Lạng Sơn
ngày nay, nằm ở phía bắc ải Chi Lăng), quân Minh lại gặp đội quân của Trần Lựu
đứng chặn đường như trêu ngươi. Lý Khánh dù đang bệnh nằm ở hậu quân, cũng phải
cố gượng dậy đến chỗ Liễu Thăng mà can gián khẩn thiết. Thăng ậm ừ, nhưng vẫn
kiêu căng bởi vì sự kích động của quân ta. Tại Ải Lưu, Trần Lựu cầm quân khinh
kỵ giao tranh một lúc rồi lại rút lui. Liễu Thăng tức mình vì Trần Lựu cứ tháo
lui nhưng rồi lại lảng vảng trước mặt, hắn bèn đích thân dẫn vài trăm kỵ binh
thân tín quyết truy đuổi đến cùng. 10 vạn quân Minh cùng đội kỵ binh của Trần Lựu
rượt đuổi một quãng đường từ Ải Lưu đến tận ải Chi Lăng.
Ải Chi Lăng là một thung lũng hẹp nằm giữa những dãy núi cao vút… Từ
xưa ải Chi Lăng hầu như là con đường mà bất cứ đạo quân phương bắc nào cũng phải
đi qua khi tiến đánh phương nam. Phía bắc ải là Quỷ Môn Quan, nơi mà cả người
phương bắc lẫn người phương nam đều ái ngại khi đi qua. Có câu thơ của binh
lính phương bắc rằng :
Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn
Phía nam ải Chi Lăng là Ngõ Thề, nơi mà những đạo quân người Việt ở các
triều đại cất lên những lời thề quyết tử rồi bước vào trận chiến với giặc xâm
lăng. Phía tây ải là các núi đá vôi nằm cạnh dòng sông Thương. Phía đông là hai
dãi núi Thái Hòa, Bảo Đài. Bên trong ải lại có năm ngọn núi Nà Sản, Mã Yên, Phượng
Hoàng, Lỳ Lân, Hàm Quỷ chia cắt ải thành những con đường, thung lũng nhỏ. Nhiều
nơi trong ải phải bắc cầu treo để đi qua những đầm lầy, thung lũng, khe suối.
Lại nói về việc Trần Lựu thực hiện nhiệm vụ đánh nhử địch đã hoàn thành
rất xuất sắc. Sau một hồi truy đuổi gấp, đội hình quân Minh bị kéo giãn ra, đứt
đoạn. Liễu Thăng cùng đám kỵ binh mải miết đuổi theo Trần Lựu tiến sâu vào ải
Chi Lăng, bỏ xa phần lớn quân Minh ở phía sau. Đến núi Mã Yên, Liễu Thăng và
hơn trăm quân kỵ vừa qua cầu treo thì lập tức quân Lam Sơn cho phá cầu. Lúc này
thì tình thế coi như đã an bài đối với Liễu Thăng, khoảng 10 vạn quân Minh phía
bên đây đầu cầu chỉ còn cách đứng nhìn chủ tướng của mình cùng hơn 100 kỵ binh
bị hãm trong trận mà vô phương ứng cứu. Trong phút chốc, phục binh quân Lam Sơn
bốn phía nổi lên vây chặt lấy Liễu Thăng, cùng với quân của Trần Lựu quay ngựa
đánh dồn lại, nhanh chóng diệt gọn tiên phong của địch. Liễu Thăng bị mắc vào
vũng lầy bên sườn núi, quân ta xáp lại dùng giáo đâm chết, rồi chặt lấy đầu hắn
làm chiến lợi phẩm trước sự bàng hoàng, ngẩn ngơ và bất lực của quân tướng nước
Minh hầu như vẫn còn nguyên vẹn bộ khung, quân số nhưng không thể làm gì ngoài
việc đứng nhìn chủ soái của mình chết thảm. Bấy giờ là vào ngày 10.10.1427.
Lợi dụng lúc 10 vạn quân Minh chưa kịp định thần vì cái chết của chủ tướng,
các tướng Lam Sơn là Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Lê Khắc Thụ… cùng đem 1 vạn
quân gồm cả tượng binh, kỵ binh, bộ binh từ các ngã đường núi xông ra đánh thốc
vào đội hình giặc. Quân Minh tiến sang lần này cũng không phải là một đạo quân
dễ dàng buông xuôi. Mặc dù bị mất chủ tướng sớm và bị phục binh bốn bề vây
đánh, bọn tướng lĩnh còn lại vẫn bình tĩnh điều quân, cố gắng ổn định lại hàng
ngũ. Phó Tổng binh giặc là Lương Minh lên thay Liễu Thăng làm chủ tướng, chỉ
huy quân tướng đi vòng qua núi Mã Yên, đánh mở đường tiếp tục tiến lên. Lê Sát
cùng các tướng không đủ binh lực đánh chẹn đường, sau khi gây thiệt hại nặng
ban đầu cho quân Minh thì vòng ra tuyến sau, bám sát theo đội hình hành quân của
địch chờ thời cơ đánh phối hợp với các đạo quân khác. Quân Minh vượt qua ải Chi
Lăng với thương vong hơn 1 vạn tên. Chiến cụ của chúng gồm súng lớn, đồ dùng
công thành, tên đạn đều bị quân ta đốt sạch.
Lương
Minh từ chối nghị hòa, vong mạng nơi Cần Trạm
Bảo Định bá Lương Minh sau những giờ phút kinh hoàng ở ải Chi Lăng vẫn
còn trong tay chừng 9 vạn tinh binh, hắn vẫn nuôi hy vọng tiến quân xuống đồng
bằng. Lúc này, với mong muốn sớm lập lại hòa bình và tránh khỏi sự thù địch về
sau của Minh triều, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi gởi thư chiêu dụ Lương Minh ngay khi
quân Minh vượt ải Chi Lăng. Thư viết:
“Tôi thường nghe, binh cốt để bảo vệ cho dân, không phải là để làm hại
dân, dẹp yên để không phải giết, không phải là để giết nhiều người. Cho nên có
câu rằng: “Binh là bắt đắc dĩ mới phải dùng”. Điều mà có thể thôi được hay
không thể thôi được, không phải là bản tâm của thánh nhân. Nay các ông đem quân
đi sâu vào cõi đất người chính là bị hãm vào thế trong miệng cọp, muốn tiến
không được, muốn lui không hay. Còn ta thì nhân thế chẻ tre, sau khi chẻ được mấy
đốt, cứ lọng lưỡi vào mà chẻ đi, thực không khó gì. Nhưng ta vẫn nghĩ đến nghĩa
nước nhỏ thờ nước lớn, có mặt trời soi trên, không dám thiếu lòng thành kính.
Cho nên nhiều lần gửi thư mà các ông vẫn không trả lời. Thế có phải là sự không
may của một nước ta chăng? Thế là sự không may lớn cho cả nhân dân thiên hạ.
Sao có thể thôi được mà không thôi hẳn.
Trước đây, các thành Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn Châu, Nghệ An và Tiền, Hậu
vệ, Thị Kiều, Xương Giang, Tam Giang đều đã mở cửa thành, cởi cùng ta hòa giải.
Phàm hết thảy quan quân, đàn ông, đàn bà, lớn bé cộng mấy vạn người, ta đều thu
nuôi tất cả, không xâm phạm một chút nào. Xin các ông lui ngay quân ra ngoài bờ
cõi, ta tự dẹp mở lối về, cho các ông được thung dung đem quân về, ta sẽ đem
các quan lại đàn ông, đàn bà nói trên kia trao tất cả ở ngoài bờ cõi. Như thế
thì các ông có thể ngồi hưởng thành công mà Nam, Bắc từ nay vô sự, há chẳng hay
ư? Nếu có thể thôi được mà không thôi, là do các ông không biết dập tắt lửa đi
để cho nó tự cháy lên, không phải là tội của ta vậy. Thư nói không hết lời.”
Khác với nhiều thư từ trước kia, lần này có vẻ như Nguyễn Trãi đã nói với
Lương Minh những lời rất thẳng thắn và thực lòng chứ không còn dùng những quyền
mưu ẩn đằng sau câu chữ. Việc nghị hòa trên thế thắng đối với nước ta dù rằng
không đem lại một chiến thắng trọn vẹn về mặt quân sự, nhưng sẽ là một chiến thắng
về ngoại giao rất quan trọng. Việc giành được độc lập mà vẫn giữ được mối quan
hệ tốt với nước Minh, một đế chế hùng mạnh nhất phương đông đương thời sẽ mở đường
cho một nước Đại Việt mới gây dựng lại phát triển mạnh mẽ, không bị đe dọa bởi
chiến tranh và chạy đua vũ trang. Đối với quân Minh, chúng dù vẫn còn lực,
nhưng đã mất thế. Việc nghị hòa với quân Lam Sơn cũng là lối thoát khả dĩ nhất
cho chúng. Thế nhưng Lương Minh vẫn quen thói cùng binh độc vũ, ngoan cố tiến
quân.
Ngày 15.10.1427, quân Minh tiến đến Cầm Trạm (xã Hương Sơn, huyện Lạng
Giang, Bắc Giang ngày nay). Tại đây, quân Lam Sơn đã dựng lên một thành lũy nhỏ
chắn ngang đường tiến quân của giặc. Hơn ba vạn quân dưới quyền chỉ huy của các
tướng Nguyễn Đình Lý, Lê Văn An đã đạt mai phục dày đặc bên đường từ trước. Kịp
khi Lương Minh vừa kéo quân đến, phục binh nổi lên đánh phá, lại theo chiến thuật
kinh điển của quân Lam Sơn là bẻ gãy tiền phong, nhắm thẳng vào chỗ Lương Minh
mà đánh gấp. Đồng thời, các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt … trước đó vẫn
bám theo sau quân Minh, được dịp cũng hết sức đánh thốc vào mặt sau. Quân Minh
cũng ra sức chống trả mãnh liệt, chia thành vòng trận trong ngoài, chiến đấu
trên một trận tuyến dài 5 km. Giặc đã tự đặt mình vào thế quyết tử, nên đánh
nhau rất hăng. Tuy vậy, quân Lam Sơn vẫn chiếm thế thượng phong nhờ vào sự chuẩn
bị kỹ lưỡng từ trước. Bảo Định bá Lương Minh đánh nhau ở vòng ngoài trận, bị
trúng lao chết tươi. Quân Minh với các tướng lĩnh còn lại là Lý Khánh, Hoàng
Phúc, Thôi Tụ vẫn can trường tiến binh vượt qua Cần Trạm, để lại xác của Lương
Minh và hơn 1 vạn đồng đội chết trong trận.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét