NẠN ĐÓI Ất Dậu-1945
Kỳ 3: Người chết đói teo tóp như cành củi khô
Đói! Đói! Đói! Nạn đói năm Ất Dậu 1945 ngày càng lan tràn dữ
dội. Làng mạc xác xơ, tiêu điều, u ám. Người dân đói quá, cơ thể khô héo, quắt
quéo như cành củi khô. Nhiều người vật vờ đi nơi khác kiếm miếng ăn.
Đói lả, họ đi không nổi nữa, phải bò lết rồi nằm rũ trên mặt đất và không
bao giờ dậy được! Đến những người may mắn còn sống cũng không đủ sức kéo thi thể
họ đi vùi lấp...
Những gia đình chết hết vì đói
Trong cuốn Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử của GS
Văn Tạo và GS Furuta Moto, nhóm nghiên cứu đã một lần nữa khẳng định Thái Bình
(nay thuộc Hưng Yên) là nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất.
Sau khi nhóm điều tra thực địa từ 21 tỉnh thành, đối chiếu với số liệu của
Ban lịch sử tỉnh Thái Bình, số người chết đói sát với thực tế ở tỉnh lúa này là
khoảng 280.000 người. Con số khủng khiếp dẫn đầu những tỉnh có người bị chết
đói nhiều nhất như Nam Định 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam 52.000 người...
80 năm sau đại thảm nạn của dân tộc, chúng tôi về thôn Thượng, xã Tây
Lương (nay là xã Tiền Hải), nơi nạn đói diễn ra nặng nề nhất. Đây cũng chính là
vùng được nhóm GS Văn Tạo lựa chọn khảo sát thực tế kỹ lưỡng về hậu quả nạn đói
đầu tiên.
Cụ Nguyễn Văn Tuyền - 86 tuổi, một trong số nhân chứng hiếm hoi còn lại của
nạn đói - vẫn chưa thôi ám ảnh với những cơn đói rũ người. Cậu bé 6 tuổi khi ấy
phải đi tìm rau má quanh đầm ao, bờ tre để ăn cho đỡ đói. Ở nhà, bố mẹ cậu cũng
chỉ luộc củ chuối ăn, hiếm hoi lắm mới được chút cháo loãng.
Dù chưa nhận thức hết nỗi thống khổ người dân phải gánh chịu nhưng những
năm sau nạn đói cụ Tuyền trực tiếp nghe bố mẹ, bà con xóm làng sống sót qua nạn
đói kể tường tận thảm nạn kinh hoàng.
"Dân mình cực khổ lắm, ban đầu là sưu cao thuế nặng rồi đến bọn xâm
lược bắt nhổ lúa trồng đay. Thành ra vùng đất lúa mà dân đói ăn như thế đấy"-
cụ Tuyền bức xúc kể thêm năm ấy mất mùa khiến dân chết đói như rạ.
Nhớ cảnh nạn đói, mắt cụ chực ứa lệ: "Ban đầu gạo phải ăn dè sẻn,
sau đó ăn cách bữa rồi phải ăn cháo. Rau cỏ cũng hết dần, rau lang, rau má cũng
lụi dần vì bị hái nhiều không kịp mọc.
Dần dần gạo cũng hết, củ chuối cũng không còn, người dân phải bán đồ đạc
trong nhà với giá rẻ để mua gạo. Giá lúa ngày càng đắt, ban đầu 15 đồng, 30 đồng
rồi lên 80 đồng một thùng. Không ai mua nổi, rồi người dân bắt đầu chết dần khi
không có hạt gạo nào vào bụng trong nhiều ngày.
Người đi làm thuê không có việc làm, ruộng không có nên càng đói. Có nhà
phải bán để mua gạo ăn cũng chẳng đủ, phải bỏ đi ăn xin rồi chết dọc đường.
Khi lớn hơn vài tuổi, tôi nghe kể các con đường liên xã, liên huyện người
chết đói như rơm rạ vương vãi vệ đường. Có những cảnh mẹ chết rồi, con còn đỏ hỏn
cứ khóc ngằn ngặt, trèo qua bụng mẹ để bú hết vú này sang vú khác rồi cũng chết
đói theo mẹ. Đời tôi chưa bao giờ nghĩ có những cảnh đau lòng như thế.
Nhà tôi bảy anh chị em, anh lớn, em nhỏ đều mất trong nạn đói. Thím họ với
em dâu cũng chết. Xung quanh nhà tôi, bà Xưng, ông Vỡn, ông Nhăng, Nặc... rất
nhiều người cũng chết. Bố tôi đi làm thợ mộc ở đâu đem được ít gạo về gia đình
mới thoát chết.
Ngày đó ngồi ở nhà tôi đây, nhìn ra quốc lộ thấy điêu tàn, thê thảm lắm.
Người đói đến nỗi đang đi trên đường cũng gục xuống chết, người ngợm da bọc
xương, vật vờ như những bóng ma".
Năm 1992-1995, nhiều nhân chứng trong nạn đói vẫn khỏe mạnh, nhóm của GS
Văn Tạo đã tới từng thôn, xóm trò chuyện với các cụ may mắn sống sót.
"Tôi thấy có Nhật về đong thóc ở Trà Lý, xã Đông Lý liền kề xã Tây
Lương. Chánh tổng kêu gọi mọi người ai có thóc thì bán, ai không có cũng bắt buộc
phải bán...
Cụ Hoàng Văn Kim có năm nhân khẩu (hai vợ chồng, ba con gái) chết bốn người.
Còn một cô con gái cả đi lấy chồng rồi tha phương lên Hà Nội sau cách mạng mới
về. Họ Bùi trong làng khoảng 72 người thì có chín gia đình chết đói cả với khoảng
50 nhân khẩu, chiếm 2/3 số nhân khẩu.
Cả thôn Hiên có khoảng 100 gia đình chết hoàn toàn, ví dụ nhà ông Bùi Văn
Chấn có sáu người, chết không còn một ai" - ông Bùi Văn Sang (69 tuổi),
xóm Nam Thọ, thôn Hiên, xã Tây Lương (cũ), nhân chứng trong cuộc khảo sát khi ấy,
kể.
Ông Cao Trang (68 tuổi thời điểm phỏng vấn năm 1992) ở xóm 7, thôn Nghĩa,
xã Tây Lương cũng là một nhân chứng nghẹn ngào kể: "Họ Cao gồm bốn gia
đình anh em, với 28 nhân khẩu. Gia đình tôi có bảy người, gồm bố mẹ, ba trai,
hai gái nhưng chết cả, chỉ còn mình tôi. Gia đình có đất nhưng phải bán hết,
bán hết ruộng rồi bán cả năm gian nhà tre được 16 chén gạo, vì thế không còn gì
để sống.
Gia đình ông Cao Găng có sáu người, hai vợ chồng và bốn đứa con đều chết
cả, không còn ai. Gia đình ông Cao Nhe có tám người thì chết bảy, chết hai vợ
chồng, ba con trai, một dâu, một cháu, chỉ một người con gái là sống thôi. Gia
đình ông Cao Hiếu có bảy người, hai vợ chồng, ba con gái, hai con trai thì chết
năm người, chỉ còn hai con gái...”.
Chết vì đói rồi chết vì... no
Chỉ từ tháng 10-1944 đến tháng 5-1945, khắp các thôn xã vùng quê lúa Thái
Bình nạn đói hầu như không chừa một nơi nào.
Cụ Nguyễn Quang Dung, 91 tuổi, ở Thụy Phong, Thái Thụy, còn nhớ:
"Không chỉ nông dân chết đói, một số địa chủ cũng chết. Ngày trước họ bán
thóc gạo để mua đồ dùng. Đến lúc đói, họ mang đồ đạc đi bán chẳng ai mua, rồi
cũng chết".
"Dân mình còn chết vì dịch tả năm 1944, không có thuốc men nên chết
rất nhiều. Rồi môi trường sau nạn đói, tử thi chết không ai chôn hoặc chôn sơ
sài khiến dịch bệnh lây lan càng nhanh" - cụ Hoàng Đức Bộ, 90 tuổi, thôn
Hiên, xã Tây Lương, cho biết khi gặp lại chúng tôi.
Cụ Bộ kể thêm người dân bỏ xóm làng đi xin ăn, kéo nhau về các chợ huyện,
về trung tâm thị xã. Nhiều gia đình dắt díu nhau ra Hà Nội hoặc ngược lên vùng
núi phía Bắc để tìm cái ăn. Số lượng đi đông nhưng trở về chẳng được bao nhiêu
người vì chết đói dọc đường.
"Dân ta còn một lần chết nữa, chết vì bội thực. Chính tôi cũng suýt
chết đây. Vụ mùa đầu tiên sau năm đói, ai nấy ăn bao nhiêu bát cơm cũng chưa
no. Vị cơm ngọt như mía lùi. Tôi ăn 4-5 bát, định ăn thêm bát nữa may mà có người
cản.
Ăn rồi vài phút đau bụng, tức ngực không chịu nổi. Có người mách tôi xuống
ao ngâm người dưới nước mấy tiếng mới thoát" - cụ Bộ nghẹn ngào kể ngày
tháng đau thương vì đói của đời mình.
Lịch sử Đảng bộ các cấp ở Thái Bình đã ghi nhận con số đau thương:
"Nhiều làng chết đói, từ 50-80% dân số. Làng Sơn Thọ (Thụy Anh) có
1.025 người thì chết đói mất 965 người (79% dân số), làng Thanh Nê (Kiến Xương)
có 4.164 người, chết đói 1.854 người"- trích Lịch sử Đảng bộ Thái Bình.
"Nạn đói tháng 3-1945 đã cướp đi của Minh Lăng 1.085 người, trong đó
hàng chục gia đình chết không còn một ai" - trích Lịch sử Đảng bộ và nhân
dân xã Minh Lăng, Vũ Thư (1930-1954).
"Nam Cao chết đói 1.247, trong đó 108 gia đình chết; Nam Đường chết
đói 545 người, 50 gia đình chết đói cả nhà; Cao Bạt Lụ chết đói 702 người, 58
gia đình chết đói cả nhà" - trích Lịch sử Đảng bộ xã Nam Cao, Kiến Xương
(1945-1988).
"Nạn đói Ất Dậu 1945 đã làm cho 1.800 người chết đói, trong đó 109 hộ
không còn một ai" - trích Lịch sử truyền thống Đảng bộ và nhân dân Nam Hà
(Tiền Hải), 1993.
"Xã Hoàng Diệu chết 1.280 người. Riêng thôn Sa Cát Công giáo chết gần
500 người" - trích Những tư liệu lịch sử Đảng bộ và nhân dân Hoàng Diệu,
thị xã Thái Bình, 1991.
-------------------------------
Quá đói, người dân nhiều tỉnh phải bỏ làng đi xin ăn. Đoàn người đói lả vật
vờ về Hà Nội để mong có miếng ăn và được sống nhưng người phải bỏ mạng nhiều vô
số.
Nhận xét
Đăng nhận xét