NẠN ĐÓI Ất Dậu-1945-Còn hơn một thảm họa kép
NẠN ĐÓI Ất Dậu-1945
Còn hơn một thảm họa kép
Nạn đói năm 1945 còn hơn cả một thảm họa kép giáng xuống một
nửa đất nước Việt Nam khi đấy...1.
Sử liệu chính thống về nạn đói năm 1945
ghi nhận đầy đủ nhất có thể những sự kiện, nhân chứng, số liệu của thảm họa khủng khiếp năm Ất Dậu có lẽ là công trình nghiên cứu của nhà sử học, giáo sư Văn Tạo (nguyên viện trưởng Viện Sử học Việt Nam) và giáo sư Furuta Motoo (Trường đại học Tokyo) cùng các cộng sự người Nhật: Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử. Công trình nghiên cứu - khảo sát thực địa ở 23 điểm thuộc 21 tỉnh, thành phố từ Quảng Trị trở ra Bắc từ năm 1992-1995, được công bố vào đầu những năm 2000.
Nạn đói bùng phát, cuối năm 1944, trên quy mô 32 tỉnh miền Bắc (từ Quảng Trị trở ra). Riêng ở Thái Bình, Nam Định, số người chết đói đã xấp xỉ 500.000 người, tức khoảng 25% dân số, trong đó riêng điểm Tây Lương (tỉnh Thái Bình) tỉ lệ chết đói trên tổng số dân số là 66,66% (tức 2/3).
2.
Kiếp nạn lớn nhất của dân tộc năm 1945
được tái hiện trong nhiều bộ phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam như: Sao tháng Tám (sản xuất năm 1976), Chị Dậu (1980), Làng Vũ Đại ngày ấy (1982)… với xu hướng chủ đạo là tố cáo tội ác của đế quốc Nhật, thực dân Pháp và tầng lớp địa chủ cường hào ác bá ở nông thôn miền Bắc.
Tất cả đều phản ánh một phần sự thật và đem lại cảm giác căm thù những kẻ
đã gây ra thảm họa tầm mức quốc gia, và lý giải một phần động lực đấu tranh của
người nông dân miền Bắc trong Cách mạng Tháng Tám.
Nhưng như thế là không đủ. Sự thật gần 2 triệu người chết đói - dù con số
đấy có chưa thật sự chính xác, và vì với bất cứ lý do gì thì, khi được phơi bày
ra cho hậu thế, trước hết thảm cảnh bi thương và con số kinh hoàng đấy phải đem
đến một cảm giác đau đớn, xót thương, đem lại sự thấu cảm, sẻ chia và nhu cầu tự
vấn… những giá trị nhân bản mà xã hội và trường học đang cố gắng hướng đến và
mang lại cho những người trẻ.
Một sự thật khác đang hiện hữu, là sau những tác phẩm ấy, cùng những bức
hình ám ảnh nổi tiếng của nhiếp ảnh gia Võ An Ninh về nạn đói này, chúng ta rất
ít thấy những sự kiện, những tác phẩm nghệ thuật, tổ hợp tạo hình… hay cả những
nghi lễ thực hành thường xuyên trong các cộng đồng làng xã hướng đến sự tưởng
nhớ hàng triệu nạn nhân năm ấy.
Bia tưởng nhớ và mồ chôn tập thể nạn nhân nạn đói ở nghĩa trang Hợp Thiện
(nay trên phố Kim Ngưu, Hà Nội), bài điếu tế của cụ Vũ Khiêu, và cứ mỗi mười
năm mới ghi nhận được một đại lễ cầu siêu do nhà chùa tổ chức cho những nạn
nhân năm đói... là những gì ít ỏi chúng ta đang có để tưởng nhớ về sự kiện khủng
khiếp này trong chừng ấy năm.
Ở các tỉnh mà nạn đói diễn ra dữ dội nhất như Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định,
dấu tích của thảm họa này giờ chỉ còn là một vài khu vực với tên gọi chung
chung như Mả Đói, Gò Lâu, Mả Ma, dốc Âm Hồn...
Những ý tưởng manh nha về một biểu tượng về nạn đói năm Ất Dậu ở Thái Bình, Nam Định… được khơi lên từ lâu, được hứa sẽ làm từ nhiều năm trước, đến nay vẫn chưa có hi vọng gì trở thành hiện thực.
Một quá khứ đau thương cần được lưu giữ trong ký ức và thực tế, bằng nhiều
cách khác nhau, hơn là bị lãng quên. Chúng ta không đòi hỏi có được những công
trình lớn như khu tưởng niệm người Do Thái ở Berlin, hay khu tưởng niệm hòa
bình Hiroshima, nhưng chúng ta cũng không thể tự nhủ rằng quá khứ đau buồn và
là trang đen tối nhất trong lịch sử hiện đại của dân tộc cần phải được lãng
quên.
Người Nhật, những thế hệ sinh trước năm 1970 khi đến Việt Nam, đa số đều
biết khi được nhắc đến sự kiện bi thảm này và thường nói lời xin lỗi với người
Việt đối diện, trong khi người Nhật thế hệ trẻ hơn, ít người biết, cũng có thể
vì đến cả người Việt trẻ cũng không mấy ai còn nhớ.
Lòng trắc ẩn, tình yêu thương vẫn mạnh hơn sự căm thù. Hàng triệu đồng
bào nằm xuống vì đói năm Ất Dậu là những người đã lãnh nhận tai ương khủng khiếp
của dân tộc, để cho những người còn sống có động lực và lựa chọn con đường đi
tiếp.
Khi những căm hờn đã lắng xuống sau chừng ấy biến thiên dâu bể thì sự thấu
cảm, cùng lòng xót thương sâu sắc để người chết được tưởng nhớ, được tôn trọng
phải được duy trì, như bản chất hướng thiện tự nhiên của con người ở bất cứ nơi
đâu trên thế giới này.
Một ngày thắp hương chung cho đồng bào nạn nhân của năm đói Ất Dậu, việc
có nhiều hơn những tác phẩm nghệ thuật, những không gian nghe nhìn có tính biểu
đạt và gợi nhớ sâu sắc, tinh tế về thời khắc bi thảm của dân tộc để mỗi cá nhân
khi đứng trước không gian đấy có thể cảm nhận sự đau thương mất mát, có thể tự
vấn lương tâm, có thể hiểu được một phần lịch sử của đất nước có những trang
đen tối như thế nào… là rất cần thiết.
Đó vừa là cách tưởng nhớ nhân văn những người đã nằm xuống, cũng là cách
để thể hiện phẩm giá cho người còn sống, phẩm giá của dân tộc.
Kiếp nạn lớn nhất của dân tộc năm 1945
được tái hiện trong nhiều bộ phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam như: Sao tháng Tám (sản xuất năm 1976), Chị Dậu (1980), Làng Vũ Đại ngày ấy (1982)… với xu hướng chủ đạo là tố cáo tội ác của đế quốc Nhật, thực dân Pháp và tầng lớp địa chủ cường hào ác bá ở nông thôn miền Bắc.
Những ý tưởng manh nha về một biểu tượng về nạn đói năm Ất Dậu ở Thái Bình, Nam Định… được khơi lên từ lâu, được hứa sẽ làm từ nhiều năm trước, đến nay vẫn chưa có hi vọng gì trở thành hiện thực.
Nhận xét
Đăng nhận xét