NẠN ĐÓI Ất Dậu-1945
Kỳ 2: Trở lại những làng chết gần hết vì đói
Nhiều gia đình chết hết cả nhà, có dòng họ chết không còn một ai, thậm
chí có xóm bị xóa sổ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945. Từ làng quê xác xơ, điêu
tàn ngày ấy giờ đã khang trang, giàu đẹp, đồng lúa mênh mông, trĩu hạt.
Xóm Trại bị xóa sổ trong nạn đói
Tỉnh Thái Bình (nay là Hưng Yên) là nơi nạn đói Ất Dậu diễn ra nặng nề nhất.
Vậy điều gì khiến một vùng được xem là vựa lúa của miền Bắc, người nông dân lại
chết đói nhiều đến thế?
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình, xuất bản năm 1986, ghi: "Năm 1945 tỉnh
Thái Bình có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số. Nhiều địa phương chết
tới trên 50% dân số, xã Tây Lương (Tiền Hải) 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh (Thái Thụy)
79%; xã Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người thì chết 2.000 người; xã Tây Ninh
(Tiền Hải) có 171 gia đình chết không còn một ai...".
80 năm sau nạn đói kinh hoàng, chúng tôi về xã Tây Lương (nay thuộc xã Tiền
Hải), nơi cả một xóm bị xóa sổ vì nạn đói, đó là xóm Trại của thôn Thượng.
Trong cuộc khảo sát về nạn đói ở Tây Lương đầu những năm 1990 do nhóm của GS
Văn Tạo và GS Furuta Moto phụ trách, năm 1945 cả xóm Trại có 34 hộ gồm 130 nhân
khẩu.
Khi nạn đói quét qua, xóm Trại chết 103 nhân khẩu, còn lại 27, tỉ lệ chết
79%. Những người còn lại của xóm đã ghép vào ở các thôn khác, xóm Trại bây giờ
là cánh đồng lúa xanh ngát, trải thảm bên đường bê tông phẳng lì. Ít ai biết
khu đất từng là khu "đất chết".
Dọc đường bê tông hiện đại ấy, chúng tôi hẹn gặp trưởng thôn Hiên Nguyễn
Văn Tuyền, ông giới thiệu gia đình cụ Hoàng Đức Bộ, cả hai ông bà là người cao
tuổi nhất thôn và còn minh mẫn.
"Tôi chính là dân xóm Trại ngày xưa lên đây cư ngụ, nhà tôi có sáu
người, chết trong nạn đói ba người, họ hàng, xóm giềng chết hết. ông Bê, ông Ý,
ông Ạp, ông Nhàn đều chết cả" - cụ Hoàng Đức Bộ, 90 tuổi, thôn Hiên, xã
Tây Lương cũ, bất ngờ cho biết mình là dân xóm Trại.
Cụ Bộ kể sau nạn đói người dân còn sống sót trong xóm rất ít, họ lần lượt
bỏ đi hoặc chuyển sang các thôn khác ở. Nhớ lại thảm cảnh kinh hoàng của nạn
đói, cụ Bộ buồn bã kể:
"Bây giờ rau muống, rau khoai bò ra đường không ai ăn, ngày xưa tìm
không ra một ngọn. Đến củ chuối, củ chót cũng hết, không có để đào cơ mà, vì ai
cũng đói" - cụ Bộ không giấu được nước mắt khi nhắc về nạn đói.
"Mùng 3 anh tôi chết, mùng 4 mẹ chết, rồi một thời gian sau em gái
út cũng chết. Chỉ còn bố với hai anh em chúng tôi. Bố phải ra ngoài đi kiếm cái
ăn, còn hai anh em tôi ôm nhau nằm co ro trong ổ rơm góc nhà đợi bố về. Không
biết bố khi nào mới về, không biết hai anh em có bị chết không", cụ nói. Cụ
Bộ lúc đó 9 tuổi, còn em trai 7 tuổi, lúc nào cũng sợ bố không về nữa.
Cụ bà Bùi Thị Nhị, 92 tuổi, năm xưa ở xóm dưới thôn Thượng. Gia đình cụ
Nhị may mắn thoát chết nhưng bà con họ hàng thì chết không còn ai.
"Chú tôi bán nhà, đi xin ăn rồi chết cả bố lẫn con. Bác tôi tên Chấn,
sáu người, tôi chỉ nhớ bác với một người con chết hết không còn ai. Nhà hàng
xóm cũng sáu người là nhà ông Mạn, cũng đi rồi chết hết không còn ai. Nhà ông
Kim, ông Beo cũng không còn người nào, chết hết, một cô con gái đi lấy chồng
thì thoát chết" - cụ Nhị xúc động kể lại.
Nhà cụ Nhị có bố mẹ và ba người con, nhịn đến ngày thứ tư thì bố mang gạo
về nên cả nhà thoát chết. Bố đi làm thuê ở đâu không biết, mẹ tìm người thân
vay tiền. Bố mẹ cụ Nhị còn bán cả nhà, chỉ ở dưới bếp để cứu cả nhà chết đói.
Theo trí nhớ của cụ Bộ, tình cảnh lúc đó ở xóm Trại rất ảm đạm, người cứ
thưa vắng dần. Mỗi người trong gia đình cứ lần lượt chết, hôm nay một người,
ngày mai lại vài người. Hàng xóm ai còn sống thì sang lấy chiếu đắp lại mang đi
chôn, đến lúc không còn chiếu thì chôn bằng lá cây. Đến lúc chết nhiều quá
không còn người mang đi chôn, chết trong nhà ba bốn ngày không ai biết.
Đói nên không ai muốn ra khỏi nhà, cũng không có sức mà đi, chỉ người
thân mới qua thăm nhau. Lúc ấy chỉ có nhà tranh, vách đất, nhà không có cửa, gọi
túp lều thì đúng hơn.
"Nhà ông nội tôi chết năm người, gồm chú và các cô. Một cô, mẹ chồng
bảo trong này đói quá, không cưu mang được, con ra ngoài huyện đến mùa thì về.
Nhưng cô ra vài ngày sau thì chết. Cụ lớn chết vì dịch tả năm 1944. Thêm hai cụ
và gia đình tôi nữa là chết tất cả tám người", cụ Bộ nghẹn lời.
Nhà cụ Thiệp, hàng xóm cụ Bộ, có ba bố con, dắt nhau đi ăn xin. Một hôm bố
để hai con ở nhà, đi tắt cánh đồng sang mãi làng trên tìm thức ăn, lúc quay lại
thì hai con đã chết đói rồi!
Sau nạn đói, gia đình cụ Bộ ở ghép với thôn Hiên. Lớn lên, cụ Bộ và cụ Nhị
cưới nhau, sống ở thôn Hiên tới già. Hiện hai cụ đang sống yên vui cạnh nhà con
trai cả, với khoản lương hưu quân đội mấy chục năm cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc
của cụ Bộ.
Gia đình cụ làm riêng một cái tường đường rất to, phải tới hai gian nhà,
làm nơi thờ cúng tổ tiên và người thân chết trong nạn đói.
Chợ Hồ và chiếc xe kéo người chết đi vùi lấp hố chung
"Có phải chợ Dành nhiều người chết trong nạn đói năm 1945 không,
thưa bà?" - chúng tôi hỏi một người dân cao tuổi ở xã Thụy Sơn, Thái Thụy.
Bà thừ người lục lại trí nhớ, cho biết: "Các cụ nói chợ Dành cũng nhiều
người chết nhưng chợ Hồ còn chết nhiều hơn nữa".
Chúng tôi liền tìm tới chợ Hồ, đó là một ngôi chợ cổ ở xã Thụy Phong (xã
Thái Thụy mới). Ngôi chợ vẫn tấp nập người bán mua, cổng chợ Hồ rõ nét và bên
trong có một khu nhà cũ đang để không.
Người dân giới thiệu cho chúng tôi gặp cụ Nguyễn Quang Dung, 91 tuổi, từng
là bí thư đảng bộ xã Thụy Phong. "Năm Ất Dậu kinh hoàng đó chợ Hồ này cứ
sau buổi chợ là ông Tồ Hiệu lấy xe bò kéo tay, chở người chết từ chợ ra nghĩa địa
bên cạnh, chôn 5-6 người một hố. Tôi còn bé, cứ ra chợ xem người ta chở người
đi chôn. Chết đói đến nỗi người héo hắt đi.
Bấy giờ cướp giật nhiều lắm. Nắm cơm bán cho người ta ăn khỏi chết đói,
người đói không có tiền vào cướp. Một người bán cơm thì phải có một người cầm
đòn gánh đứng canh, ai vào cướp là vụt, ghê lắm. Có người bán cũng rất thương
người, bán một thì cho một, tương trợ lẫn nhau cho qua nạn đói.
Những khu chợ, người dân tứ xứ tập trung tới để xin ăn, chợ Hồ cũng vậy.
Xin không có ai cho thì chết ngay ở chợ, thương lắm. Gia đình tôi may không ai
chết, hàng xóm chết vô khối. Bà cụ ở xóm dưới lên đây ở với con, đói quá không
có gì ăn bà ấy về nửa đường thì chết đói.
Bố tôi thời đó còn trẻ, ông đi buôn được đồng nào đong gạo về ăn, không đến
nỗi bị cắt bữa dù ăn cháo thôi. Ăn cháo rau má, cơm độn củ chuối ăn rất khó nuốt.
Đói từ tháng 10-1944 tới tháng 5-1945 thì có lúa non ăn, lúc đó lại chết vì no,
bao tử bục ra vì ăn trả bữa, đau xót lắm" - cụ Dung không bao giờ quên những
ngày tháng tuổi thơ dữ dội giữa nạn đói.
Thanh niên, cụ Dung đi bộ đội rồi về phục viên sau đó làm cán bộ xã. Cụ
nhớ bà con từng làm lễ cầu siêu chung cho người dân mình chết đói oan ức. Làm lễ
tại nhà, nhà nào làm nhà nấy.
Làng quê từng đầy thi thể người chết đói bây giờ đã giàu đẹp, yên bình.
Chỉ tiếc những nơi nạn đói nặng nề như Thái Thụy, Tiền Hải, Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình cũ không có một tấm bia tưởng niệm đồng bào đã mất.
------------------------------
Làng mạc xác xơ, tiêu điều, phủ một màu u ám. Dân bị đói, người cứ khô
héo, teo tóp dần như cành củi khô, vật vờ đi kiếm miếng ăn. Đến lúc họ đói lả,
nằm xuống thì không thể nào gượng dậy được nữa.
Nhận xét
Đăng nhận xét