Giai thoại NGUYỄN KHUYẾN

 Giai thoại

NGUYỄN KHUYẾN
                                                                                        
     Nguyễn Khuyến (1835-1909) có tên là Nguyễn Thắng, quê ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông học giỏi, năm Tự Đức 17 (1864), đậu đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Cả ba lần đều đậu thủ khoa  nên người đời thường gọi là Tam Nguyên Yên Đổ . Đỗ xong , ông được bổ làm Hàn lâm trực học sĩ,về sau thăng đến Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc.Sau ông cáo quan về nhà, không chịu hợp tác với Pháp, thường làm thơ có tính chất ưu thời mẫn thế và đả kích vào một số nhân vật lúc bấy giờ. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Ông có tiếng hay đùa bỡn và trào phúng . Mỗi khi đưa bản thảo ra , người đương thời tranh nhau truyền tụng, sao chép được đều lấy làm thú vị. Dưới đây là một số giai thoại.
1/
Cua chơi trăng

  Tương truyền khi Yên Đổ còn ít tuổi, mắt ông đã kèm nhèm, vậy mà lại ngấp
nghé con gái một ông cử ở làng bên. Cô này đem chuyện mách cha,ông cử liền cho mời ông đến,buộc phải làm bài thơ, lấy đầu đề là "Cua chơi trăng", lấy chữ "trăng" làm vần. 

  Thấy cái đầu đề có vẻ dè bỉu, ông tuy bực mình, song cũng ngâm ngay 8 câu:

 Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
 Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.
 Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,
 Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.
 Cung quế chờn vờn hương mới bén,
 Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
 Một mai cá nước cua vui phận,
 Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?

 
 Ông cử thấy lời thơ hoạt bát và ý thơ khẳng khái: "ngày nay khinh cua, nhưng rồi cua gặp hội may (thi đỗ) , bấy giờ trăng muốn tìm cua chưa chắc  đã được", nên sinh lòng mến phục, đổi thái độ, tiếp đãi ân cần.
2/
Thơ bồ tiên 

  Một viên quan to, có con trai được bổ tri huyện Thanh Liêm (gần huyện của Yên Đổ), tỉnh Hà Nam. Anh này do nhờ vào quyền thế của bố , lại khéo  chạy chọt với Tây nên được bổ chân tri huyện ấy.Khi nhậm chức,bề ngoài anh ta tỏ vẻ một viên quan thanh liêm , hiền hậu ; nhưng kỳ thực là một tay ăn tiền  kín đáo, khôn hơn nữa là một tên mật thám cho Pháp để đàn áp nhân dân . Nhưng anh ta lại hay  bày trò thi thơ , để mượn dịp lừa bịp  nhân dân về uy đức  của mình. Một lần anh ta tổ chức kỳ thi thơ hàng huyện, ra đề thi là  “Bồ tiên thi” (thơ roi cỏ bồ), lấy chữ “bồ” làm vần. Đề thi có ý nói về ông quan thương dân, trong khi răn bảo dân chỉ dùng roi bằng cỏ bồ , vì roi cỏ bồ mềm mại , đánh không đau. 

 Câu chuyện đồn đến tai Yên Đổ, ông thấy chướng tai gai mắt, bèn gửi tới cho hắn một bài thơ như sau:

  Chú huyện Thanh Liêm khéo vẽ trò,
  Bồ tiên mà lại lấy vần bồ.
  Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
  Ngọng nghẹo văn chương giở giọng Ngô!
  Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp, (1)
  Tiên là ý chú muốn nhiều xu.     (2)
  Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,  (3)
  Không khéo mà roi nó phết cho. (4)

(1) Bồ bật cạp: cũng như bồ sứt cạp,là một thành ngữ chỉ cái bồ đựng đầy quà  nên cạp bật ra. Đây ý nói dân chửi cho đầy bồ.
(2) Chữ tiên: là roi cũng đồng âm với chữ tiên là xu. Tác giả dụng ý chơi chữ   để chửi tri huyện tham tiền.
(3) Theo một điển cũ, một viên quan muốn làm ra vẻ thanh liêm, hễ dân biếu
    vàng trước công đường thì không lấy  nhưng biếu tiền bạc ở nhà riêng thì
    vẫn lấy như thường.
(4) Câu kết nhắc đến “roi” là để gói gắm cái đầu đề đã ra.

3/
Đòi xem câu đối 

  Tục xưa, hằng năm cứ đến rằm tháng chạp thì các thầy đồ đã bắt đầu cho học trò nghỉ Tết Nguyên Đán.Còn trong dân gian thì ngày 23 tháng chạp thường ăn Tết ông Táo rất to; và nhiều nơi Tết Nguyên Đán hầu như cũng bắt đầu luôn từ đấy. 

   Nghe đâu vào năm Nguyễn Khuyến đang làm gia sư cho Hoàng Cao Khải, tới ngày rằm tháng chạp năm ấy, ông cũng xin nghỉ để về quê nhà ăn Tết. 

 Sau khi Nguyễn Khuyến về quê, Hoàng Cao Khải nhân có việc quan phải qua Hà Nam, bèn nhắn cho Nguyễn Khuyến biết là sẽ ghé thăm ông. 

  Hôm đó đúng 23 tháng chạp, Tết ông Táo, Nguyễn Khuyến mới nhân dịp tìm cách xỏ họ Hoàng một vố chơi. 

 Ông sai người trồng một cây nêu khá cao, trên treo một chiếc đèn lồng và một vế đối như sau:

  Kiết kiết can mao, tiết đáo, kình thiên phù nhật nguyệt.
  Nghĩa là: Chót vót cờ mao, đến Tết, chống trời phò nhật nguyệt.
  
Câu này nghĩa đen nói về cây nêu cao có treo đèn, nhưng nghĩa bóng là tỏ chí khí của nhà thơ. Vế đối lơ lửng này cốt để nhử họ Hoàng vào tròng. 

  Quả nhiên khi Hoàng Cao Khải tới, hắn đọc vế đối ở cây nêu thì tấm tắc khen hay, nhưng thấy chỉ có một vế thì thắc mắc lắm, cứ năn nỉ đòi Nguyễn Khuyến viết nốt vế thứ hai. 

  Chỉ đợi có thế Nguyễn Khuyến bèn dẫn họ Hoàng vào trong bếp nhà mình. Ở đó, cạnh mấy cỗ đầu rau mới nặn, viên kinh lược sứ Bắc Kỳ đọc thấy vế đối lại như sau:

  Mang mang khối thổ, thời lai, tảo địa tác quân vương.
  Nghĩa là: mênh mông khối đất, gặp thời quét rác cũng làm vua. 

  Câu này nghĩa đen chỉ là nói mấy ông đầu rau (ông táo) nặn bằng đất.Nhưng ý tứ sâu xa là bảo họ Hoàng chỉ là đồ nặn bằng đất thịt, chỉ do gặp thời mà lên đó thôi (Trỏ vào việc Hoàng Cao Khải làm Kinh lược Bắc Kỳ) 

   Hoàng Cao Khải vì muốn xem vế đối mà phải chui vào bếp, hắn đã bực. Lúc ngẫm vế đối có ý xỏ xiên như thế thì càng cay hơn; nhưng hắn cũng đành cười nhạt cho qua chuyện vì biết mình dại , đã trót năn nỉ đòi xem chứ nào  Nguyễn Khuyến có muốn cho xem đâu.
4/
Gặp chó

    Có một lần, viên tổng đốc Nam Định là Vũ Văn Báo  viết thư mời Nguyễn Khuyến đến chơi (việc này là làm theo lệnh viên công sứ nhằm mua chuộc lôi kéo Nguyễn Khuyến ra làm quan lại để thu phục lòng người lúc bấy giờ). 

  Nguyễn Khuyến nhận lời và cho cả người con trai là Nguyễn Hoan cùng đi. Khi hai cha con đến cổng dinh tổng đốc thì gặp viên công sứ Nam Định đi ra, vào khỏi cổng thì có con chó tây nhảy xổ tới cắn. Nguyễn Khuyến hốt hoảng vội đẩy con trai lên cản chó. 

  Lúc vào nhà, sau câu chuyện phiếm, Vũ Văn Báo nói đến việc chính phủ bảo hộ muốn mời Nguyễn Khuyến ra làm đốc học thành Nam, Nguyễn Khuyến không trả lời, chỉ rung đùi đọc đùa một câu tức cảnh rằng:

  Hốt đáo nhĩ môn phùng nhĩ cẩu,
  Cấp tương ngô tử thế ngô thân.

  Tạm dịch:
  Đến cổng nhà ngươi thời gặp chó
  Kịp đem con trẻ thế thân già.


   Vũ Văn Báo hiểu ý mỉa mai chua cay của nhà thơ, cũng giận, song chỉ cười nhạt không dám nói ra . Vì Báo đối với Nguyễn Khuyến  vừa là bạn lại vừa là chỗ thông gia. 

  Hôm sau về nhà, Nguyễn Khuyến làm một bài thơ thác lời gái goá để gửi cho Báo. Bài thơ như sau:

  Chàng chẳng biết gái này gái goá,
  Buồn nằm suông quên cả áo cơm.
  Khéo thay cái mụ tá ơm, (1)
  Đem chàng tuổi trẻ ép làm lứa đôi.
  Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc.
  Gái già này sức vóc được bao?
  Muốn sao, chiều chẳng được sao.
  Trước tuy sum họp sau nào được lâu?
  Lấy chồng vốn nhớ câu ăn mặc.
  Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi.
  Vốn xưa cha mẹ dặn lời,
  Tư bôn (2) lại phải kẻ cười người chê.
  Mụ hỡi mụ, thương chi thương thế?
  Thương thì hay nhưng kế chẳng hay.
  Thương thì gạo vải cho vay,
  Lấy chồng thì gái già này xin van!


(1) Tá ơm: là mụ mối, chỉ vì Vũ Văn Báo mối lái cho Nguyễn Khuyến ra làm
    quan với Pháp.
(2) Tư bôn: trốn theo trai, ý nói bỏ dân bỏ nước đi theo tây

  Báo xem xong,không những hiểu ngay rằng Nguyễn Khuyến vin cớ tuổi già để từ chối việc ra làm quan với Pháp , mà cũng biết chán cụ Tam Nguyên còn chửi y rất đau nữa là khác, nhưng vì lời thơ khôn khéo kín đáo quá, không thể moi móc chỗ nào được nên đành nuốt giận làm lành , xuê xoa cho qua chuyện và từ đấy không dám lôi kéo dụ dỗ gì nữa. 

 Bài thơ này bằng chữ Hán (có đầu đề là Ly phụ hành), chính ông dịch ra quốc âm. Cũng có sách nói ông làm bài thơ này để tỏ tâm sự đối với kinh lược Bắc Kỳ là Hoàng Cao Khải
5/
Vịnh phỗng đá 

  Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn, viên kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải cho mời ông đến làm gia sư (thầy dạy học trong nhà), để có dịp giám sát chặt chẽ hơn. Ông từ chối không được, sau cùng phải nhận một cách miễn cưỡng.
    Một hôm, viên kinh lược mở tiệc khao mừng long trọng, gia sư nguyên là một vị tam nguyên nên cũng được mời dự.Tân khách toàn là quan lại Bắc Kỳ, đai vàng áo tía rực rỡ . Còn ông đồ Khuyến lúc ấy thì chỉ áo vải khăn thâm. Trong tiệc  ông ngồi yên chẳng nói chẳng rằng . Bọn quan lại  thấy vậy có ý khinh miệt, chỉ trỏ bàn tán với nhau, bảo Nguyễn Khuyến là ông phỗng đá; ý muốn nói sự có mặt của ông ở đây cũng bằng thừa mà thôi! 

   Nguyễn Khuyễn nghe được bực lắm. Nhân lúc viên kinh lược bảo ông làm bài ca trù cho cô đào hát ông liền lấy ngay “Phỗng đá” làm đề và làm một bài như sau:

  Người đâu tên họ là gì?
  Khéo thay chích chích chi chi nực cười. (1)
  Giang tay ngoảnh mặt lên trời.
  Hay còn lo tính sự đời chi đây?

  Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi,
  Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
  Hay tưởng trong cây cỏ nước non này
  Chí cũng rắp giang tay vào hội lạc (2)?
  Thanh sơn tụ tiếu đầu tương hạc,
  Thương hải thuỳ tri ngã diệc âu.    (3)
  Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu,
  Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.  (4)
  Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,   (5)
  Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác.
  Cuộc tỉnh say say tỉnh một vài câu.
    Nên chăng đá cũng gật đầu!

(1) Chích chích chi chi: cũng chỉ ù ù, cạc cạc, không biết gì việc đời.
(2) Hội lạc: tên một hội vui chơi của một số nhà thơ đời Tống.
(3) Hai câu thơ Hán nghĩa là: Ta cười ta đầu đã bạc (như đầu con hạc) mà vẫn
     thích thú cuộc đời . Nhưng ai biết đâu ta lại giống con chim âu nhàn nhã ,
     không muốn nghe chuyện đời lật lọng.
(4) Túi vũ trụ: bầu trời đất, cuộc đời, việc đời.
(5) Duyên hội ngộ: duyên gặp gỡ sum họp.

  Bài ca trù làm xong, viên kinh lược giục cô đào hát ngay lên để thưởng thức. Lúc ấy có Phan Văn Ái làm chức quan nhỏ trong nha kinh lược cũng ngồi dự tiệc, nghe thấy cái tâm sự u uất và cái độ lượng “không chấp chuyện đâu đâu” của nhà thơ như thế, Ái rất xúc cảm. 

  Vốn chẳng ưa gì bọn quan trên, lại bất bình với thái độ khinh mạn của chúng đối với  Nguyễn Khuyến , Ái cũng mượn dịp hoạ lại luôn một bài ca trù  theo đầu đề “Phỗng đá” như sau:

  Non thiêng khéo đúc nên người,
  Trông chừng sành sỏi khác loài trần gian.
  Trải bao gió núi mưa ngàn,
  Đã già già sóc, lại gan gan lỳ.

  Gan lỳ già sóc
  Há non chi mà sợ cóc chi ai,
  Người là người, tớ cũng là người.
  Ngẫm cho kỹ vẫn chênh vênh đầu giốc,
  Tương chi tằng thức năng công ngọc.
  Mặc luyện như hà khả bổ thiên. (1)
  Thôi mặc ai rằng trắng rằng đen,
  Thế như thế, hẵng ngồi yên như thế vậy.
  Còn trời đất hãy còn tai mắt ấy,
  Lặng mà coi họa thấy lúc nào chăng ?
    Hãy về giã gạo ba giăng.

(1) Hai câu thơ chữ Hán lấy tích Nữ Oa luyện đá vá trời, có nghĩa là: Người
     biết mình có khả năng giũa được ngọc, Không luyện thì làm sao vá được
     trời
  Nghe đâu lúc bài của Phan Văn Ái được cô đào hát lên, bọn quan trên nghe thấy giọng thơ đầy khí phách ngang tàng,đều có ý không thích. Nhưng không tìm thấy chỗ nào hớ hênh trong bài để mà bắt bẻ, nên chúng cũng đành chịu.
6/
Thơ ông phỗng sành: 

   Tương truyền khi Nguyễn Khuyến làm gia sư cho viên kinh lược Bắc Kỳ, ông không mấy khi có nét mặt vui vẻ. Hàng ngày sau buổi dạy học, ông hay lững thững đi dạo một mình trong khu vườn vắng của nhà chủ. Tại đó,có cây, có đá, có đủ hoa cỏ bốn mùa, nhất là có ông phỗng sành đứng dưới gốc si,hai mắt đăm đăm dòm xuống  bể nước như  chứa chất một  tâm sự gì , khiến cho Nguyễn Khuyến rất thích. 

  Một lần ông đang tần ngần đứng ngắm phỗng sành, bất chợt viên kinh lược đi tới bắt gặp. Thấy vậy, hắn bảo Nguyễn Khuyến thử vịnh một bài “Thơ phỗng sành”. Nguyễn Khuyến đang hứng, chẳng thèm nghĩ, vịnh luôn rằng:

  Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
  Trơ trơ như đá vững như đồng.
  Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
  Non nước đầy vơi có biết không? 

Bài thơ làm xong, viên kinh lược phải chịu là hay; nhưng hắn không chịu nổi cái giọng mai mỉa sâu cay của vị gia sư. Thế rồi mấy ngày sau, hắn đành phải chiều theo ý Nguyễn Khuyến để cho ông trở về và nhận con ông là Nguyễn Hoan đến dạy học thay.
7/
Thơ thăm bạn mất cướp 

  Nguyễn Khuyến có ông bạn là tuần phủ họ Bùi, ông tuần này tính tình hống hách mà hay đục khoét. Lúc về hưu ở làng, ông ta tuy không có dịp đục khoét nữa, nhưng vẫn cố ky cóp làm giàu bằng đủ mọi cách bóc lột bẩn thỉu. Vì thế, dân trong vùng rất ghét ông ta. Tình cờ một đêm,một bọn kẻ cướp bôi nhọ mặt, vào nhà tóm ông ta khảo của, lấy hết tiền nong vàng bạc. Rồi sau chúng lại lôi ông ta ra tận giữa cánh đồng làng và trói gô để ở đó. 

 Sáng hôm sau dân chúng rõ chuyện, lấy làm hả hê lắm. Rồi chẳng mấy chốc, chuyện bay đi khắp vùng. Nguyễn Khuyến nghe được, vốn đã ghét cái thói vơ vét của ông quan họ Bùi, cho thế cũng là đáng đời, mới làm giễu bài thơ rằng:

  Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
  Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
  Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
  Xương già da cóc, có đau không?
  Bây giờ trót đã sầy da trán,
  Ngày trước đi đâu mất mảy lông?
  Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa,
  Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!

  Họ Bùi mất cướp, của cải hết sạch, mình mẩy đau nhừ, đang bực , khi nhận được bài thơ hỏi thăm của bạn, tưởng là an ủi gì, hoá ra lại nói xỏ thì càng tức hơn, mới trả miếng Nguyễn Khuyến bằng một bài thơ như sau:

  Ông thăm tôi cũng giã ơn ông,
  Nó có lôi tôi đến giữa đồng,
  Cũng tưởng vun thu phòng lúc thiếu,
  Nào ngờ ky cóp lại như không.
  Chém cha lũ quỷ đen tai mắt,
  Chẳng nể ông già bạc tóc lông.
  Ông hỏi thăm tôi, tôi biết vậy,
  Thương ông tuổi tác chán thời ngông!

  Nguyễn Khuyến đọc bài thơ, biết họ Bùi cũng có ý muốn xỏ lại mình; nhưng thấy giọng xỏ non nớt quá nên chỉ cười thầm.
8/
Chi chi giã 

  Khoảng những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX của chế độ thực dân ở Việt Nam, bỗng nảy nòi ra một cô me tây khá kỳ dị, đó là cô Tư Hồng. 

  Tư Hồng tên thật là Trần Thị Lan, quê ở gần làng của nhà thơ Yên Đổ, thuộc tỉnh Hà Nam . Cô Lan xinh đẹp và thông minh, bỏ quê ra Hải Phòng kiếm ăn, lấy một người Hoa kiều tên là Hồng; vì thế người ta thường gọi là thím Hồng. Về sau , cô lại lên Hà Nội lấy một viên quan tư nhà binh Pháp; bấy giờ tên cô có thêm một chữ “Tư”. Từ đấy người ta thường gọi là cô Tư Hồng, cái tên gói ghém lịch sử hai đời chồng. 

   Cô Tư Hồng khéo biết lợi dụng thời cơ và nhan sắc làm nên giàu có, tiếng tăm lừng lẫy một thời. Cô có hai “kỳ công” được người ta nhắc đến luôn, đó là việc bao thầu vụ phá thành Hà Nội để lấy gạch, và việc phát chẩn gạo cho đồng bào Thừa Thiên. Việc bao thầu đã đưa lại cho cô hàng  mấy dãy nhà và nhiều biệt thự đồ sộ ở Hà Nội. Về vụ gạo, cô ta dược phép độc quyền bán gạo cho đồng bào bị lụt ở Thừa Thiên; lợi dụng dịp này cô ta đầu cơ rất ghê; nhưng khi việc vỡ lỡ thì lại xảo quyệt biến thành món gạo phát chẩn. Vì thế, Tư Hồng đã được triều đình Huế, vâng lệnh thực dân Pháp, phong cho hàm "tứ phẩm phu nhân" là hàm của hàng án sát tỉnh. Kế đó, Tư Hồng lại chạy cho bố cũng được phong luôn hàm "hàn lâm thị độc". Thế là có giàu lại có sang; Tư Hồng thừa dịp về làng khao vọng hết sức linh đình. 

  Bấy giờ, Nguyễn Khuyến cũng được mời đến dự, nhưng ông cáo bệnh không đi; cho người mang đến mừng ba chữ   “Chi chi giã” để đề vào hoành phi và hai câu đối nôm như sau:

  Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá vang lừng hăm sáu tỉnh (1)
  Này biển, này cờ, này sắc phong cho cụ, chị em (2) được thế mấy lăm người!

(1) Hăm sáu tỉnh: số tỉnh toàn cõi Bắc Kỳ bấy giờ.
(2) Chị em : tiếng gọi thân mật để chỉ phụ nữ làm những nghề không được
    trọng vọng lúc bấy giờ như cô đào, gái làng chơi, vv... Đây là dụng ý mỉa
    mai của Yên Đổ.


  Hôm ấy các quan khách đến dự đông lắm; nghe nói văn chương của Yên Đổ thì đều xúm lại xem, nhưng không ai hiểu ba chữ “Chi chi giã” là thế nào cả. Nghe đâu chỉ có ông đốc học Hà Đông là Trần Tấn Bình tình cờ đọc lái lại ba chữ “chi chi giã” thành ra “cha cha đĩ ” nên đã hiểu được dụng ý của Nguyễn Khuyến. Tuy vậy  ông ta chỉ cười thầm trong bụng chứ không tiện nói ra. Còn vế đối nôm thì mọi người đều khen hay cho rằng ca tụng như thế đã là hết lời. Nhưng riêng ông đốc học cũng lại chỉ cười thầm; vì ông biết Nguyễn Khuyến cũng đã dựa theo câu tục ngữ “Làm đĩ có tàn có tán, có hương án thờ vua” để chửi xỏ mụ Tư Hồng. 

  Rồi nhân thể ông đốc học nảy hứng, cũng theo gót Nguyễn Khuyến mà mừng một đôi câu đối rằng:

Ngũ phẩm vinh phong hàm cụ lớn
Ngàn năm danh tiếng của bà to. 

   Tương truyền hai câu này cũng được mọi người trầm trồ khen mãi; mà bố con Tư Hồng thấy nôm na dễ hiểu,ngắn gọn dễ nhớ, cũng thích lắm. Song họ có biết đâu rằng ông đốc học đã chửi xỏ chẳng kém gì Nguyễn Khuyến. Vì quai hàm của cụ mà đem đối với cái kia của bà thì cũng khá là đau!
9/
Khóc anh thợ rèn 

   Cạnh nhà Tam nguyên Yên Đổ có một gia đình làm nghề thợ rèn  trẻ tuổi, sống êm ấm hạnh phúc với hai con bụ bẫm.Chị vợ là một người đẹp người tốt nết, trong làng đã từng có nhiều tên lưu manh giở trò ve vãn, doạ dẫm, nhưng chị vẫn giữ mực đoan trang. Bỗng người chồng ốm rồi chết, ai cũng thương. Yên Đổ nghe tin liền gửi một đôi câu đối:

 Nhà cửa để lầm than, con thơ dại lấy ai rèn cặp?
 Cơ đồ đành bỏ bễ, vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi
.

Câu đối này hóm hỉnh ở chỗ Yên Đổ đã dùng những tiếng “than”, “rèn”, “cặp”, “bễ”, “đe”, “loi”, là những nguyên liệu và dụng cụ cần thiết trong nghề rèn.
10/
Văn tế F. Garnier 

  Năm 1873, sau khi Francis Garnier bị quân Cờ Đen giết, triều đinh nghị hoà với Pháp, các quan ta ở Hà Nội muốn tạo một hoàn cảnh thuận tiện cho việc giải hoà,bèn tổ chức lễ truy điệu viên sĩ quan Pháp tử trận. Tổng đốc Hà Nội là
Trần Đình Túc cử Yên Đổ làm bài văn tế. Ông viết như sau:

     Nhớ ông xưa:
  Tóc ông quăn, - Mũi ông lõ
  Ông ở bên Tây ngang tàng – Ông sang bên Nam bảo hộ.
  Quan ông to, ông có lon vàng đeo tay; - Công ông cao,ông có mề đay đeo cổ.
  Mắt ông chiếu kính thiên lý, đít ông cưỡi lừa. - Vai ông đeo súng lục liên, miệng ông huýt chó.
  Tháng … ngày hai … ông ở huyện Thuỵ Anh,
  Tháng … ngày mồng … ông sang Thiên Bình phủ.
  Ông, định giết thằng Đen, - để yên con đỏ,
  Nào ngờ: Nó chém đầu ông đi – nó bêu mình ông đó.
  Khốn nạn thân ông, – Đ… mẹ cha nó.
      
       Nay tôi:
  Vâng mệnh các quan – Tế ông một cổ
  Xôi một mâm – Rượu một hũ
  Chuối một buồng – Trứng một ổ
  Ông ăn cho no – Ông uống cho đủ
  Hồn ông lên Thiên đàng – Phách ông vào địa hộ
  Ông ơi là ông – Nói càng thêm hổ !

Lời văn mỉa mai đến sỗ sàng, rất mực trào lộng như miệng đối với đít (đít cưỡi lừa, miệng huýt chó). Người Pháp đâu có hiểu lắt léo như ta, dù có người dịch ra tiếng Pháp! Tuy vậy mặc lòng, bài văn tế này các quan cũng không cho đọc,
chỉ được phổ biến bằng khẩu truyền.
11/
Vợ anh thợ nhuộm khóc chồng:

  Bên cạnh nhà Yên Đổ có người làm nghề thợ nhuộm rất khéo nên khách hàng đến thuê nhuộm luôn luôn đông đúc, vải lụa phơi trước nhà anh ta 

lúc nào cũng rực rỡ đủ màu. Chẳng may, một hôm anh ta ốm chết, để lại
vợ trẻ với mụn con thơ. Người vợ chạy sang nhà Yên Đổ xin câu đối khóc
chồng. Ông lấy giấy bút viết ngay hai câu:

Thiếp từ thủa lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều khôn
nhờ bố đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột
với trời xanh.
 

  Thế là có hầu hết các màu trong tay thợ nhuộm: thắm, tía, đen, đỏ, vàng, hồng, trắng, tím, xanh. Không những thế, câu đối còn nói rõ được tình cảnh gia
đình người chết, lại diễn tả được mối thắm thiết của người vợ khóc chồng.
12/
Thơ tạ người cho hoa trà: 

     Tương truyền tổng đốc Hưng Yên là Lê Hoan đứng ra tổ chức cuộc thi thơ vịnh Kiều ở Tao đàn Hưng Yên vào năm 1904 , Lê Hoan có mời Yên Đổ  vào ban chấm thi. Thí sinh có thể làm thơ quốc âm hay chữ Hán. 

   Khi ấy, khách văn chương ở các tỉnh gởi bài về rất nhiều; riêng Chu Mạnh Trinh gửi 20 bài quốc âm đến dự thi. Nguyễn Khuyến chấm thơ Chu Mạnh Trinh  cho là khá; nhưng đọc đến hai câu trong bài vịnh Sở Khanh:

   Làng nho người cũng coi ra vẻ
   Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay! 

  Nguyễn Khuyến tỏ vẻ không bằng lòng, phê ngay vào bên cạnh rằng:

   Rằng hay thì thực là hay,
   Đem “nho” đối “xỏ” lão này không ưa.
 

 Chẳng mấy chốc chuyện ấy lọt ra ngoài rồi lan khắp trong làng nho, ai nghe cũng lấy đó làm một giai thoại để giễu họ Chu. 

  Chu Mạnh Trinh từ đấy giận Nguyễn Khuyến . Khi làm án sát  Hưng  Yên, nhân ngày Tết, Chu cho người mang đến biếu Nguyễn Khuyễn một chậu hoa trà với dụng ý cũng khá thâm: Nguyễn Khuyến lúc ấy đã bị loà cả hai mắt mà họ Chu lại tặng hoa chỉ có sắc , không có hương , như thế là có ý xỏ lá . Hiểu thâm ý của Chu,Nguyễn Khuyến bèn làm bài thơ mỉa như sau gửi lại cho Chu Mạnh Trinh:

  Tết đến người cho một chậu trà,
  Đương say còn biết cóc đâu hoa!
  Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,
  Áo tía đai vàng, bác đó a?
  Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá, (1)
  Gió to luống sợ lúc rơi già! (2)
  Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
  Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà! (3)

(1) Xỏ lá: còn có nghĩa là nguy hại ; do câu thơ chữ Hán  “tầm thường vì vũ
    kinh xuyên diệp” (những hạt mưa nhỏ dần dà cũng có thể xuyên thủng lá)
(2) Rơi già : rơi rụng quả, gãy mầm; do câu thơ chữ Hán “tiêu sắt thời phong
    khủng lạc già” (gió mùa khô mạnh làm cho quả rụng, mầm rơi)
(3) Khà: tiếng cười khà: mắt loà không thấy sắc đẹp nên phải ngửi, ngửi cũng
    đếch thấy hơi thơm nên đành phải cười khà.

 Chu Mạnh Trinh đọc xong thơ vừa thẹn vừa ân hận. 

 Người ta nói đùa rằng một phần chính vì bài thơ này, nhất là hai câu ba, bốn mà Chu Mạnh Trinh phải xin từ chức Án sát,
 không làm quan nữa. Cố nhiên lý do không phải là như vậy.
13/

Thơ tự trào:

 Lúc về già, ông làm bài thơ tự trào, lời lẽ tuy mộc mạc và hí lộng, nhưng tả được từ  vẻ người đến thời cục và thái độ bất khuất (nhưng thụ động) của mình
, điểm thêm một nụ cười chua chát:

  Cũng chẳng giàu, mà cũng chẳng sang,
  Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng.
  Cờ đương được cuộc không còn nước,
  Bạc đánh ba quan (1) đã chạy làng. (2)
  Hé miệng nói ra gàn bát sách,
  Mềm môi chén mãi tít cung thang.
  Nghĩ mình lại gớm cho mình nhĩ:
  Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!

(1) Ba quan: ba quan tiền. Đây nói nghĩa bóng: làm quan ba nơi, lúc nước mất cáo về
(2) Chạy làng: thua bạc, không giam tiền, bỏ chạy
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến