Tiểu sử TRẦN QUÔC TOẢN
Tiểu sử
TRẦN QUÔC TOẢN
Mỗi chúng ta
khi đọc văn, học sử Việt Nam thời nhà Trần đều tự hào về một giai đoạn lịch sử
hào hùng với những con người vĩ đại đã lập nên những chiến công hiển hách để bảo
vệ đất nước trước nạn ngoại xâm. Nếu bảo kể tên tuổi, tiểu sử các vị vua, các
vương hầu, võ tướng nhà Trần trong nửa sau thế kỷ XIII thì ai cũng có thể
tường tận tiểu sử nhiều người: Vua Trần Thánh Tông, Thượng tướng thái sư Trần
Quang Khải, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn…
Nhưng thử đề
nghị nêu tiểu sử người anh hùng tuổi thiếu niên Trần Quốc Toản thì có lẽ tất cả
sẽ lúng túng và chỉ có thể viết được tên, ghi lại được các chiến công, còn tiểu
sử chi tiết thì… chịu. Đã có biết bao tác phẩm văn, sử viết về Trần Quốc Toản
nhưng cũng chưa nói được gì thêm điều đó. Thành thử, xung quanh thân thế, sự
nghiệp Trần Quốc Toản trên 7 thế kỷ nay bao phủ một màn huyền thoại đến nỗi có
ý kiến đặt vấn đề rằng đó có thể chỉ là một hình tượng văn học được dựng lên để
làm phong phú thêm tác phẩm.
Chỗ khuyết
thiếu trong tiểu sử Trần Quốc Toản có thể một phần do nhà chép sử, cũng có thể
do hoàn cảnh đất nước nhiều thế kỷ luôn luôn ở trong tình trạng có chiến tranh
nên không thể lưu trữ và giữ gìn toàn vẹn các sử liệu. Tư liệu lịch sử thành
văn có thể chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng những di tích, di vật – những sử liệu sống,
có thể bổ sung để lưu danh những người có công với nước. Về làng Sặt (nay là
thôn Trang Liệt, xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) chúng ta có thể bổ
sung thêm nhiều tư liệu giúp điền khuyết tiểu sử Trần Quốc Toản, thêm vào đó là
tận mắt chứng kiến các di tích, di vật liên quan đến gia đình Trần Quốc Toản
còn hiện hữu ở đó. Trần Quốc Toản sinh năm Mậu Thìn (1268) tại trang Bà Liệt,
làng Sặt, là con trai của Trần Bà Liệt và là cháu nội của Thượng hoàng Trần Thừa
(1184 – ?).
Trần Bà Liệt
là một đô vật nổi danh khắp xứ Đông Ngàn (nay là Từ Sơn), trấn Kinh Bắc, được
nhân dân suy tôn là “Đô Liệt”, sau được sung quân phục vụ triều Trần, trở thành
võ tướng. Khi quân Nguyên Mông có âm mưu xâm lược nước ta thì ông được vua Trần
Thánh Tông (1258 – 1278) phong chức Hoài Đức vương, chỉ huy một đạo quân phòng
thủ. Chi tiết này rất quan trọng để khẳng định nguồn gốc xuất thân của Trần Quốc
Toản.
Ngoài các chi
tiết đã biết, chúng ta phải làm phép so sánh với các sự kiện lịch sử đương thời
để lý giải, cắt nghĩa, từ đó dựng được tiểu sử chân xác của Trần Quốc Toản.
Chàng là con nhà võ, ham học sử, đọc sách nên tinh thông cả võ nghệ và giỏi văn
chương, xứng đáng là bậc hậu thế tài danh của nhà Trần. Tháng 10 năm Nhâm Ngọ
(1282), khi vua Trần triệu tập Hội nghị Bình Than (tên bến ở sông Lục Đầu, thuộc
xã Trần Xá, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) bàn kế đánh giặc, Trần Quốc Toản mới
15 tuổi (theo cách tính tuổi theo âm lịch); theo đó, có thể suy ra Trần Quốc Toản
sinh năm 1268. Thế là có thêm một căn cứ chính xác.
Các sự kiện
tiếp sau thì nhưng chúng ta đã biết: Do Trần Quốc Toản còn nhỏ, vua không cho dự
bàn việc nước, chỉ khen ngợi và ban cho một quả cam; Trần Quốc Toản vì mải nghĩ
việc lớn, vừa căm thù giặc vừa thẹn mình chưa được coi là người lớn, đã bóp nát
quả cam trong tay lúc nào không biết. Chi tiết này đã được các tác phẩm văn học
khai thác, trở thành chi tiết không thể thiếu khi nói về Trần Quốc Toản. Trần
Quốc Toản đã bí mật tập quân, rèn binh, sắm vũ khí… được hơn một nghìn nghĩa
binh trẻ tuổi, dựng cờ “Phá cường địch, báo Hoàng ân” chờ ngày diệt giặc.
Năm 1285, khi
quân Nguyên kéo sang, Trần Quốc Toản đã chỉ huy quân sĩ anh dũng đánh địch.
Chàng đã lập được nhiều chiến công với các chiến thắng Tây Kết (trên sông Hồng,
thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), Như Nguyệt (nằm trong đoạn Thị Cầu, Bắc Ninh hiện
nay)… Đội quân của chàng được triều đình công nhận và tước danh Hoài Văn hầu Trần
Quốc Toản được phong trong chiến trận. Trung tuần tháng 6 năm 1285, trong trận
chiến đấu với bọn tàn quân giặc ở sông Như Nguyệt, Trần Quốc Toản anh dũng hy
sinh khi mới 18 tuổi (cũng theo cách tính tuổi theo âm lịch). Chính vua Trần
Nhân Tông đã làm văn tế, truy vong tước vương (Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ,
quyển V, chép rất rõ điều này). Căn cứ sự kiện trên, có thể khẳng định thêm một
lần nữa: Năm sinh – năm mất của Trần Quốc Toản là 1268 – 1285.
Nói thêm về
quê hương Trần Quốc Toản: Hầu như chưa có tư liệu tin cậy về quê nội của người
anh hùng. Làng Sặt là quê mẹ của Trần Bà Liệt, cũng tức là quê ngoại của Trần
Quốc Toản. Hiện ở đó còn dấu tích khu ruộng 41 mẫu, xưa kia là “Rừng Sặt”, nơi
có “Trần triều sơn lăng”, từng được ghi trong địa bạ. Hương ước của làng cũng
quy định khu ruộng đó được dành riêng để trồng cây lấy gỗ phục vụ việc kiến thiết
và tu sửa đình chùa. Đình làng Sặt thờ Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải.
Khi Trần Bà Liệt mất, thi hài ông được đưa về an táng tại đây.
Theo đó, có
thể khẳng định làng Sặt là đất thang mộc của nhà Trần, nơi có gia trang của
Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt. Làng Trang Liệt hôm nay là làng Văn hóa cấp Quốc
gia, một địa chỉ văn hóa được đón nhiều đoàn khách về tham quan, học tập, cổ vũ
cho một vùng quê văn hiến đang phát triển trong thời đại mới, cùng góp phần bồi
đắp truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Đỗ Quốc Bảo
Nhận xét
Đăng nhận xét