“QUÂN TỬ Ố KÝ, VĂN CHI TRỨ” “VĂN” LÀ GÌ? “TRỨ” LÀ GÌ?
“QUÂN TỬ Ố KỲ, VĂN CHI TRỨ”
“VĂN” LÀ GÌ? “TRỨ” LÀ GÌ?
“VĂN” LÀ GÌ? “TRỨ” LÀ GÌ?
Câu “Quân tử ố kỳ văn chi
trứ” thấy có trong giai thoại về Nguyễn Công Trứ. Đại khái: Nguyễn Công Trứ
và Hà Tôn Quyền là bạn đồng liêu, cũng là bạn văn chương. Hai người đều có
mặt trong Hương Bình Thi Xã, thường vẫn giao du xướng họa. Tuy nhiên, họ vừa
phục văn tài của nhau, vừa ngầm đua tài với nhau. Riêng Nguyễn Công Trứ không ưa
Hà Tôn Quyền ở chỗ miệng lưỡi khéo léo, nịnh hót lấy lòng nhà vua. Một hôm có
viên quan đại thần mở tiệc mừng con trai đậu cử nhân. Rượu thịt ngà ngà, nhân
trông thấy trước sân có cây vông trổ hoa, một viên quan bảo Nguyễn Công Trứ làm
bài thơ vịnh cây vông cho vui. Cũng là cách chúc chủ nhân có con trai thi đỗ, tựa
như cây trồng đến lúc trổ hoa vậy. Nguyễn công vốn hay châm chọc bèn đọc ngay
bài thơ Nôm:
Biền nam khởi tử chẳng vun trồng
Cao lớn làm chi những thứ vông
Tuổi tác càng già già xốp xáp
Ruột gan chẳng có, có gai chông
Ra tài lương đống không nên mặt
Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng
Đã biết nòi nào thời giống ấy
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!
Nghe xong bài thơ, viên quan đại
thần sầm mặt, giận lắm. Bạn đồng liêu với Nguyễn Công Trứ là Hà Tôn Quyền mới
ra tay “chữa cháy”. Nói “Có câu đối này thách ngài đối lại: “Quân tử ố kỳ
văn chi...quan lớn”. Nguyên câu này là trong sách xưa là“Quân tử ố kỳ văn
chi trứ”, được Hà Tông Quyền chữa lại và dùng với nghĩa: người quân tử
ghét cái lối văn như của quan lớn (tức Trứ).
Nguyễn Công Trứ thấy Hà Tông Quyền
muốn lấy lòng bề trên mà lại giễu cợt mình thì bực lắm, lập tức chẳng chịu lép
vế đối ngay rằng: “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng...quý ngài”. Đây cũng vốn
là câu “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền” có sẵn trong sách xưa,
nghĩa là: Bậc thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng quyền. Nguyễn Công Trứ cũng theo
cách của ông Quyền thay chữ Quyền bằng chữ “quý ngài” với dụng ý xỏ xiên: Bậc
thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến ông Quyền”.
Về câu“Quân tử ố kỳ văn chi trứ” tác
giả “Giai thoại văn học Việt Nam” (NXB Văn học-2010), Kiều Thu Hoạch
cho biết: “Nguyên đây là câu liền trong sách “Quân tử ố kỳ văn chi trứ”
nghĩa là: Người quân tử ghét lối văn hoa mỹ, lòe loẹt”. Hà Tôn Quyền
vờ kiêng tên ông Trứ, thay bằng chữ “quan lớn” với dụng ý mỉa mai: “Người quân
tử ghét cái văn của anh Trứ”.
Về giai thoại này, Tạp
chí Văn hóa Nghệ An (vanhoanghean.com) đưa ra dị bản “Quân tử ố kì văn chi
Cụ lớn” và giải nghĩa: “Nguyên đây là một câu cổ văn trong sách Trung
Dung “Quân tử ố kì văn chi trứ”, nghĩa là “Người quân tử ghét lối
vănchươngloè loẹt bề ngoài”.
Như vậy, cứ theo như tác giả Kiều
Thu Hoạch và Tạp chí Văn hóa Nghệ An thì chữ “văn” ở
đây là “văn chương”. Tuy nhiên, theo chúng tôi, chữ “văn” trong câu
đã được Hà Tông Quyền sửa đi và vận dụng thành “Quân tử ố kỳ văn
chi...quan lớn” để châm chọc Nguyễn Công Trứ, được hiểu là “văn
chương” có thể đúng (Các vị ấy có quyền làm thế, và đang lấy sự đồng âm của
chữ để "chơi nhau"). Còn chữ “văn” trong câu “Quân tử ố kỳ văn
chi trứ” lấy ý trong sách Trung Dung lại có nghĩa là văn hoa, vẻ bề
ngoài, không phải là văn chương. Xin trích nguyên văn chữ Hán: 詩 曰: "衣 錦 尚 絅"惡 其 文 之 著 也. 故 君 子 之 道 闇 然 而 日 章. 小 人 之 道 的 然 而 日 亡). Phiên âm: “Thi
viết: “Ý cẩm thượng quýnh” ố kỳ văn chi trứ dã. Cố quân tử chi đạo, ám
nhiên nhi nhật chương. Tiểu nhân chi đạo, đích nhiên nhi nhật vong”.
HTC tạm dịch: Áo gấm chuộng
mặc lồng (áo gấm mặc trong, bên ngoài phủ thêm một cái áo đơn). Bởi người sang
trọng không thích kiểu phô bày cái gấm hoa rực rỡ, lòe loẹt vậy. Cũng giống như
cái đạo người quân tử, tuy lờ mờ mà ngày càng rõ rệt. Còn đạo kẻ tiểu nhân bề
ngoài rõ vậy mà ngày càng mất dần đi. (Lưu ý: chữ “y” 衣 nghĩa là cái áo, đọc là “ý” nghĩa
là mặc áo).
Trong sách Luận Ngữ, ông Tử Hạ cũng nói rằng: "Tiểu nhân chi quá dã, tất văn" (小 人 之 過也必文)Nghĩa là: Kẻ tiểu nhân hay dùng lối văn sức bề ngoài mà tô điểm những tội lỗi của mình. Nghĩa của chữ "văn" trong câu này được hiểu như chữ "văn"trong "Quân tử ố kỳ văn chi trứ".
Trong cụm từ “văn chi trứ”,
tuy cùng tự dạng là “văn” 文,nhưng “văn” ở đây
không phải là văn chương như ông Kiều Thu Hoạch, và Tạp chí Văn
hóa Nghệ An viết mà là văn hoa, vẻ ngoài. Hán Việt tự điển (Thiểu
Chửu) cho biết “Văn: Văn hoa, chỉ cốt bề ngoài cho đẹp, không chuộng
đến sự thực gọi là văn, như phồn văn 繁 文, phù
văn浮文, v.v”.
Nghĩa gốc của chữ văn 文 nghĩa là “xăm mình”. Hình chữ cổ trong Giáp
Cốt văn và Kim văn giống như một người trước ngực (hoặc sau lưng) có xăm những
hoa văn. Sách Trang tử viết: Việt nhân đoạn phát văn thân (越人断髮文身), nghĩa là Người Việt cắt tóc, xăm mình. Chữ văn 文này khác với văn 聞 nghĩa
là nghe mà bạn đọc Ng. Kim Bay hỏi. Văn聞 nghĩa
là nghe có bộ nhĩ 耳nằm phía trong bộ môn門, hình trong Giáp cốt văn giống như một người đang quỳ, lấy
tay che miệng, vểnh tai nghe ngóng tiếng động. Nghĩa gốc là nghe thấy. Về
sau dùng mũi ngửi cũng gọi là “văn” 聞 .
Còn chữ “trứ” 著. Tuy cùng có tự dạng là trứ 著, nhưng trong câu “Quân tử ố kỳ văn chi trứ” thì
trứ 著 không phải là soạn thuật, trứ tác (trước
tác) như bạn Ng. Kim Bay đoán, mà có nghĩa là nổi bật, rõ ràng (cũng
là trứ trong trứ danh 著名). Cụm từ “ố
kỳ văn chi trứ” nghĩa là ghét cái vẻ bề ngoài phô trương ấy.
Trong câu “Quân tử ố kỳ văn
chi trứ”, chữvăn文nghĩa là hoa văn, vẻ bề
ngoài; chữ trứ 著nghĩa là nổi bật,
rõ ràng.
HOÀNG TUẤN CÔNG
Nhận xét
Đăng nhận xét