BÁNH KHÔNG CẲNG SAO GỌI LÀ BÁNH BÒ? – Lê Trung Hoa
BÁNH KHÔNG CẲNG
SAO
GỌI LÀ BÁNH BÒ?
Trong tiếng Việt, có
những từ ngữ hoặc địa danh sử dụng hằng ngày mà nếu có người hỏi tại sao nói
thế và nguồn gốc của những từ ngữ ấy từ đâu thì chúng ta đành bó tay; chẳng hạn
câu hỏi trên trong một bài ca dao (Nước không chưn
sao kêu nước đứng? Cá không giò sao gọi cá leo? Ghe không tay sao kêu ghe vạch?
Bánh không cẳng sao gọi bánh bò?...).
1.
Chúng ta chỉ có thể giải đáp câu trên dựa vào
cuốn Ðại Nam quốc
âm tự vịcủa Huỳnh Tịnh Của, xuất bản cách đây
trên 110 năm. Trong sách này, tác giả ghi bánh vú bò và giải thích vì bánh đổ
vào chén, trông giống như cái vú con bò. Về sau rút gọn thành bánh bò. Ðây là
hiện tượng tỉnh lược trong ngôn ngữ. Các từ sau đây cũng bị hiện tượng tỉnh
lược chi phối: dầu
con rái = dầu rái, nấm tai mèo = nấm mèo...
Ở miền Bắc có một loài cá giống và to bằng cá chép,
nhưng có đặc điểm là tươi rất lâu tên là cá rói. Dù bị bắt ra khỏi nước từ sáng
đến trưa cá vẫn còn tươi nên có thành ngữ tươi
như cá rói, về sau tỉnh lược thành tươi rói. Một thành ngữ tương tự: ngay
như cây chò (một loại cây rừng thân rất thẳng) =ngay
chò (ở Nam bộ biến âm thành ngay chừ). Cầu Kiệu ở TP.HCM được Trương
Vĩnh Ký ghi là cầuXóm Kiệu (tức
là xóm chuyên trồng kiệu), như vậy chữ Xóm ban đầu đã bị giản lược.
2.
Một từ khá phổ biến ở Nam bộ dùng để chỉ người phụ
giúp tài xế lái xe đò trong công việc bán vé, thu tiền, khiêng xách hành lý là lơ xe. Từ
này bắt nguồn từ tiếng Pháp contrôleur, nghĩa là “người kiểm soát (vé)”. Như
vậy, từ một âm tiết vô nghĩa - leur, người Việt biến thành một từ có nghĩa.
Ở miền Bắc, người ta thường dùng từ ngữ săm lốp để chỉ vỏ ruột xe đạp và xe gắn máy. Lốp thì người miền Nam cũng
dùng và những người biết tiếng Pháp đều biết nó bắt nguồn từ enveloppe, nghĩa là “vỏ xe”. Còn săm ban đầu người
miền Nam và nhất là những người không học tiếng Pháp không hiểu nghĩa. Từ săm
bắt nguồn từ ngữ chambre
à air “ruột xe”.
3
Tại sao có từ bồ bịch, nghĩa là nhân tình? Nguyên trước đây có một từ ghép bồ bịch, chỉ hai nông cụ. Bồ là dụng cụ đựng lúa, có đáy; còn bịch cũng là nông cụ đựng lúa nhưng là tấm ví khoanh tròn, không đáy vì lấy nền nhà làm đáy. Do đó, ca dao VN có câu:
Tại sao có từ bồ bịch, nghĩa là nhân tình? Nguyên trước đây có một từ ghép bồ bịch, chỉ hai nông cụ. Bồ là dụng cụ đựng lúa, có đáy; còn bịch cũng là nông cụ đựng lúa nhưng là tấm ví khoanh tròn, không đáy vì lấy nền nhà làm đáy. Do đó, ca dao VN có câu:
Bởi anh chăm việc canh nông
Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài.
Trong tiếng Việt trước đây có từ bầu (bạn), có biến âm là bồ tương tự như đậuxanh
- đỗ xanh, thi đậu - thi đỗ...
Vì từ bồ (bạn) đồng âm với từ bồ (cái bồ) nên từ bồ bịch thứ hai (người yêu) ra
đời. Chúng tôi gọi đây là hiện tượng mượn âm.
Một số trường hợp tương tự. Trái sầu riêng có
nguồn gốc từ Malaysia là đu-riêng. Ban đầu (giữa thế kỷ 19) người Việt
dùng cả hai từ, sau loại hẳn từ đu-riêng.
Huyện Kế
Sách ở tỉnh Sóc Trăng gốc Khmer là Ksach, nghĩa là “cát”. Vì gần âm với từ kế sách (phương kế, sách lược) nên Kế Sách đã thay thế Ksach.
Nhà thơ ngụ ngôn La
Fontaine của Pháp đã được các trí thức VN khoác
cho chiếc áo của Lữ Bố: Lã
Phụng Tiên (họ Lữ cũng đọc Lã, Phụng Tiên là tự
của Lữ Bố).
Ðèo ở phía bắc thành phố Nha Trang do kỹ sư người
Pháp Rury điều khiển sửa sang nên Pháp dùng tên người này đặt cho đèo. Người
Việt đã gọi là đèoRù Rì.
4.
Người Nam bộ thường bảo trẻ con đi chỗ khác chơi,
không được láng chángtrước mặt. Nhưng trong từ điển của
Huỳnh Tịnh Của đã nói ở trên ghi loán
choán. Như vậy từ gốc là choán, yếu tố láy là loán và nghĩa gốc của láng cháng là “choán chỗ”. Ðây là hiện tượng biến âm.
Ở các đô thị Nam bộ có loại xe chuyên chở đồ đạc
phục vụ xã hội mang tên ba gác. Nhiều người biết tiếng Pháp cũng ngỡ
ngàng khi biết nguồn gốc Pháp của từ này là bagage,
nghĩa là “hành lý”.
5
Bỏng trong từ bé bỏng có nghĩa là “nhỏ”. Trong tập thơ cổ Thiên Nam ngữ lục có câu thơ sử dụng từ bỏng với nghĩa này:
Bỏng trong từ bé bỏng có nghĩa là “nhỏ”. Trong tập thơ cổ Thiên Nam ngữ lục có câu thơ sử dụng từ bỏng với nghĩa này:
Trẻ thơ bỏng dại thiếu người lo toan
Hai từ bé và bỏng đồng nghĩa hay gần nghĩa kết hợp với
nhau. Ðó là hiện tượng láy nghĩa.
Nhiều từ trong tiếng Việt bị chi phối bởi hiện
tượng này: Việt + Việt: tìm kiếm, chờ
đợi, yêu thương; Việt + Pháp: canh gác (gác <garde), xanh lơ (lơ <bleu)...
Biết được nguồn gốc và ý nghĩa của nhiều từ tiếng
Việt, ngoài cảm giác thú vị, ta còn yêu thích tiếng mẹ đẻ hơn.
Tiếng Việt
nhiều khi có đối nghịch ngay trong một từ ghép. Buồn cười. Ðã buồn sao còn cười. Tức cười. Ðã tức sao còn
cười. Ấy thế, mấy chữ ấy đều chỉ một tâm trạng là muốn cười trước một điều gì
đó, trước một ai đó.
Ngã một
cái, bẩn sạch cả rồi. Bẩn
sạch. Ðã bẩn thì sao còn sạch được. Sạch ở đây chắc ai cũng hiểu
không phải là sạch sẽ. Sạch nhẵn, không còn một chút gì sót lại. Sạch nhẵn như
chùi. Ngôn ngữ phương Nam vẫn dùng là sạch bách.
Phương ngữ
Bắc bộ có từ ráo, tức
là khô ráo. Nhưng ráo cũng có
nghĩa là toàn bộ, là hết lượt. Hình như chữ ráo trọi của phương Nam cũng là
như vậy. Hổng biết chi ráo trọi.
Chẳng biết
cái gì hết. Ðưa đẩy một tí để dẫn đến câu này: gặp mưa giữa đường, ướt ráo cả
rồi. Ướt ráo. Ðã ướt lại còn
ráo.
Cũng như
vậy là câu: đò chìm, may không ai chết, sống
tiệt. Ðã sống lại còn tiệt. Nhưng mà đấy là một cách nói ở nông
thôn Bắc bộ, có nghĩa là tất cả đều còn sống. Yên tâm.
Nói sang
chuyện thực phẩm, chữ và nghĩa nhiều khi cũng không khớp với nhau: gọi là bánh giò nhưng trong ấy
không có giò, chỉ là nhân thịt lợn, mộc nhĩ, nấm hương. Bún chả thì đâu có
phải là miếng chả miếng giò mà là thịt lợn nướng. Món chả cá cũng vậy, đâu
phải là cá xay nhuyễn làm thành miếng chả rán, đó chỉ là cá hấp đem rán sơ
trên chảo mỡ sùng sục, ăn với mắm tôm.
Lại có
những khái niệm dường như bị đảo ngược: người đồng bằng Bắc bộ gọi xôi lúa, thành phần chủ
yếu là ngô (bắp), rất ít nếp ít lúa trong ấy. Cùng lúc, khi người ta gọi xôi ngô thì trong ấy nếp
nhiều hơn là ngô. Cứ nhớ là hai chữ này đảo ngược cho nhau, không bao giờ bị
lẫn. Yên tâm.
|
LÊ TRUNG HOA
Nhận xét
Đăng nhận xét