CUỘC DU HÀNH VÀO THẾ GIỚI THƠ - Nguyễn Hưng Quốc
CUỘC DU HÀNH
VÀO THẾ GIỚI THƠ
Nếu
thơ là một thế giới ảo, việc đọc thơ, như vậy, trước hết sẽ là một cuộc du hành
vào thế giới ảo ấy. Đọc Truyện Kiều là du hành vào thế giới trong đó
có Kiều và Kim Trọng gặp nhau, yêu nhau, hẹn hò với nhau, rồi xa cách nhau, nhớ
nhung nhau, cuối cùng, mười mấy năm sau, gặp lại nhau. Đọc Chinh Phụ
Ngâm là du hành vào thế giới nội tâm đầy những thương nhớ khắc khoải của
một người vợ xa chồng. Đọc thơ Quang Dũng là du hành vào một thế giới đầy
mùi hương hoài niệm, từ mùi thơm của hoa đêm tại Mường Lát, mùi thơm của nếp
xôi tại Mai Châu, mùi thơm của hoa bưởi, hoa nhài trên tóc các cô hàng xén, mùi
thơm của nồi cơm mới dỡ của các cô gái trồng cây đến mùi lạt thơm xanh,
mùi áo sặc mồ hôi gió mặn trên đường 12.
Chữ
quan trọng nhất trong luận điểm vừa nêu là chữ “du hành”.
Du
hành: đi chơi. Vừa đi vừa chơi. Đi để chơi. Không có mục đích hay mục tiêu gì
cả. Đọc thơ hay đọc tác phẩm văn học nói chung, trong nghĩa này, khác hẳn việc
đọc một công trình khảo cứu, một bài báo hay một thiên phóng sự. Đọc những tác
phẩm thuộc loại vừa kể, điều chúng ta nôn nóng muốn biết là cái kết luận, cái
kết quả sau cùng. Do đó, chúng khuyến khích việc đọc nhảy, đọc lướt. Cuộc hành
trình càng ngắn càng tốt. Cái đích đến mới là quan trọng. Với thơ hoặc với văn
học nói chung, ngược lại. Ở đây không có đích. Chính bản thân cuộc hành trình
mới đáng kể. Do đó, đọc thơ không ai nhấp nhỏm liếc xuống đoạn cuối để xem tâm
tình của tác giả kết thúc ra sao. Như một người du hành nhẩn nha ngắm trời ngắm
mây nhìn hoa nhìn cỏ, chúng ta, những người đọc thơ, cũng ung dung ngắm nhìn
từng hình ảnh, lắng nghe từng âm điệu, lâu lâu dừng lại, bồi hồi trước một câu
thơ hay, một chữ dùng đắc địa.
Việc
đọc thơ như một cuộc du hành vừa đi vừa chơi này giải thích tại sao đọc thơ,
nếu thực sự là đọc thơ, chúng ta thường đọc chậm (I.A. Richards có lần nói
bốn bài thơ để đọc trong một tuần là quá nhiều), tại sao chúng ta có thể đọc đi
đọc lại nhiều lần, hàng chục lần, hàng trăm lần, một bài thơ nào đó, ngay cả
khi chúng ta đã thuộc lòng và cuối cùng, nó cũng giải thích tại sao từ xưa
người ta đã coi một trong những chức năng chính của thơ là giải trí.
Đọc
thơ, trước hết, là tham dự vào một trò chơi của trí tưởng tượng.
Cách
ví von trên dù sao cũng khá khập khiễng. Người du hành là người ngoại cuộc, chỉ
thưởng thức thế giới bên ngoài bằng mắt, bằng tai. Quan hệ giữa người du hành
và thế giới là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Trong việc đọc thơ, ranh
giới ấy không còn. Người đọc thơ nhảy lên sân khấu để diễn kịch chứ không chấp
nhận việc ngồi dưới nhìn, nghe rồi vỗ tay reo hò, rồi thanh thản ra về. Đọc thơ
là một hành động nhập cuộc.
Tôi
đã phân biệt sự khác nhau giữa ngôn ngữ trực tiếp và ngôn ngữ gián tiếp. Nhưng trong ngôn
ngữ gián tiếp lại có hai loại: loại chúng ta coi là văn học và loại chúng ta
coi là phi văn học bao gồm các công trình nghiên cứu như triết, sử v.v... Ở
trên, khi ví việc đọc tác phẩm văn học như việc du hành, tôi đã đưa ra điểm dị
biệt đầu tiên giữa hai loại diễn ngôn (discourse) này.
Đến
đây, chúng ta có thể nêu thêm một điểm dị biệt khác: chỉ những tác phẩm văn học
mới cho phép người đọc được nhập cuộc. Đọc một quyển sử, dẫu hay đến mấy, chúng
ta cũng không thể có lúc nào đó tưởng mình là Bảo Đại, là Ngô Đình Diệm, là Hồ
Chí Minh. Luôn luôn chúng ta là người đứng ngoài, quan sát, ghi nhận và đánh
giá. Chúng ta vẫn là chúng ta. Ngược lại, đọc một tác phẩm văn học, với mức độ
nhiều ít khác nhau, chúng ta thường nhập vào nhân vật, vào tác giả. Chúng ta
xôn xao cái xôn xao của Thuý Kiều, đau cái đau của Thuý Kiều, hận cái hận ngất
trời của Thuý Kiều. Chúng ta mộng cái mộng của Thế Lữ, của Lưu Trọng Lư, chúng
ta yêu cái yêu của Xuân Diệu, của Nguyên Sa, chúng ta buồn cái buồn của Huy
Cận, của Vũ Hoàng Chương, chúng ta khắc khoải cái khắc khoải của Thanh Tâm
Tuyền, của Tô Thuỳ Yên.
Chức
năng giải trí của văn học, như vậy, không phải chỉ có nghĩa là một sự thoát ly
ra khỏi hiện thực buồn tẻ, đơn điệu của đời thường để phiêu lưu vào thế giới
tưởng tượng mà còn có nghĩa là một cách nhân bản ngã để con người, trong cùng
một lúc, có thể là mình, có thể là người khác.
Chính
ở khía cạnh này, văn học được coi là có tác dụng làm cho đời sống con người
phong phú hơn, giàu có hơn. Và cũng chính ở khía cạnh này, chúng ta thấy được
đặc điểm nổi bật của văn học: đó là nơi cho phép con người được hoàn toàn tự
do. Mọi người có thể vào, ra, có thể nhập cuộc, bỏ cuộc.
Chất
ma tuý của văn chương có lẽ phần nào xuất phát từ đó.
Nhận xét
Đăng nhận xét