MỘNG LÀM NHÀ THƠ - Nguyễn Hưng Quốc
MỘNG LÀM NHÀ THƠ
Lâu
nay, thú thực, tôi không thể gạt khỏi óc mình cái ý nghĩ này: có thể tôi đã là
một nhà thơ, không chừng là nhà thơ kha khá, nếu hồi nhỏ tôi không từng là một
học sinh quá giỏi văn.
Xin
nói ngay: cách diễn đạt có vẻ chứa đựng một nghịch lý ở trên không hề là một
biện pháp tu từ cốt để gây chú ý. Ðiều tôi vừa trình bày là một nhận định hết
sức nghiêm chỉnh. Và tôi tin đó không phải là kinh nghiệm của một mình tôi.
Tôi
mê đọc sách rất sớm, có lẽ ngay từ những năm lớp 3 hay lớp 4 gì đó. Loại sách
tôi mê đọc đầu tiên trong đời, oái oăm thay, lại là... truyện chưởng. Nguyên
nhân chủ yếu là do ông anh cả của tôi, lớn hơn tôi bảy tuổi, dạo ấy đang ghiền
đọc loại này. Mỗi cuối tuần, anh lại tha về bốn, năm tập. Tôi đọc ké. Anh tôi
không bao giờ đủ rộng lượng hay kiên nhẫn để chờ tôi đọc hết mới mang đi đổi
các tập khác. Do đó, tôi phải cố gắng đọc nhanh ngang với tốc độ đọc của anh ấy.
Và phải đọc nhảy: trong lúc anh đọc tập một thì tôi phải đọc tập hai; khi anh
xong tập một thì tôi phải xong tập hai và chuyển sang tập ba để nhường tập hai
lại cho anh. Cứ như thế, đến lúc anh đọc tập cuối cùng thì tôi quay lại đọc tập
một. Với sức đọc như thế, chỉ vài năm sau là lượng sách trong tiệm cho thuê đã
cạn. Và tôi cũng chán nữa: đọc riết, tôi khám phá ra năng lực tưởng tượng của
các tác giả truyện chưởng cũng khá nghèo: các câu chuyện có thể khác nhau ở
nhân vật và một số tình tiết nhưng kết cấu chung thì cứ như đúc từ một khuôn.
Rất công thức. Rất đơn điệu. Và do đó, rất khả đoán.
Chán
truyện chưởng, tôi quay sang đọc các loại sách văn chương nghiêm chỉnh hơn.
Không hiểu sao, tôi lại sa vào thơ. Tôi không những đọc nhiều thơ, vô số thơ,
mà còn làm thơ nữa. Những bài thơ đầu tay của tôi được các thầy cô giáo khen
ngợi nồng nhiệt và mang đọc cho học sinh các lớp khác nghe. Tôi nhanh chóng nổi
tiếng là một “nhà thơ trẻ đầy triển vọng” không những trong cái trường cấp hai
nơi tôi học, mà còn cả trong làng tôi ở, cái làng nhỏ xíu tập hợp những mảnh
đời khốn khổ do chiến tranh xô đẩy tới.
May,
tôi nhạy bén đủ để ý thức rất sớm “tiếng tăm” trong một môi trường như thế là
điều hoàn toàn không đáng tin cậy. Tôi nuôi tham vọng lớn hơn: được công nhận là
nhà thơ trong cả nước. Muốn thế, tôi không ngừng tự trau dồi “tay nghề” của
mình bằng cách học thật kỹ những bài thơ được tuyển trong chương trình giảng
văn trong lớp. Tôi đã tin, như vô số người khác từng tin và đến nay vẫn còn
tin, những bài thơ ấy là “kinh điển”, là mẫu mực của cái hay và cái đẹp bất hủ
trong lịch sử. Ði theo những bài thơ ấy, nói như Hồ Chí Minh, “toàn thắng ắt về
ta.”
Những
nhà thơ đầu tiên trong chương trình cổ văn tôi học thời ấy là Lê Thánh
Tông và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Giữa hai người, sự ái mộ của tôi nghiêng hẳn về
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chẳng hiểu tại sao. Tôi đọc thuộc lòng các bài thơ về nhân
tình thế thái của ông. Và tôi cũng làm thơ y như ông. Cũng Ðường luật. Cũng
bằng bằng trắc trắc. Cũng niêm, cũng đối. Và nhất là cũng ngất ngưởng chán đời.
Ðến bây giờ, tôi chỉ còn nhớ được hai câu:
Thôi, giã biệt trời cao danh vọng
Về làm thi sĩ chốn thâm sơn.
Về làm thi sĩ chốn thâm sơn.
Giọng
thơ như thế, từ một đứa bé 13, 14 tuổi đầu, đã được các thầy cô giáo khen ngợi
nức nở. Tôi phởn lên, làm tiếp. Trong một năm, về số lượng, không chừng tôi qua
mặt cả Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Sau
đó, chuyển sang phần kim văn, tôi được học những bài thơ mới hơn, chủ yếu trong
phong trào Thơ Mới thời 1932-45. Cũng chẳng hiểu tại sao, trong phong trào
Thơ Mới, tôi lại tâm đắc nhất với Thế Lữ. Tôi không những học thuộc các bài thơ
của ông được trích tuyển trong sách giáo khoa mà còn tìm đọc cả tập Mấy
vần thơ của ông nữa. Ðọc, mê và... bắt chước. Bắt chước đến độ hình như
bài thơ nào của tôi thời ấy cũng phả ra cái mùi của Thế Lữ. Chẳng hạn:
Ta dẫu biết yêu đương là đau khổ
Nhưng bóng nàng hồ dễ xoá trong tim.
Nhưng bóng nàng hồ dễ xoá trong tim.
Dạo
ấy, học lớp 8, tôi mê một cô bạn học cùng lớp. Tôi tự đặt cho mình một “chỉ
tiêu”: mỗi ngày làm tặng “nàng” một bài thơ. Chồng vở chép thơ cứ ngày một dày
cộm. Bài thơ nào cũng nồng nặc mùi Thế Lữ. Không biết cô gái ấy nghĩ thế nào
chứ thầy, cô và bạn bè của tôi thì ai cũng khen tíu tít. Tôi rất tự hào, nghĩ
thầm: thơ mình không khác gì, và do đó, không thua gì thơ Thế Lữ. Chưa hết. Tôi
tưởng tượng tiếp: theo cái đà ấy mà mài sắc ngòi bút thêm khoảng vài ba năm
nữa, đến lúc xong cấp ba, hẳn thơ mình sẽ vượt xa Thế Lữ! Tôi nén lòng không
gửi đăng trên tờ báo nào cả. Chủ yếu là để dành cho thiên hạ một sự ngạc nhiên.
Tôi lại tưởng tượng: sau này, đọc thơ tôi, giới phê bình sẽ bắt chước Hoài
Thanh khi viết về Chế Lan Viên ngày trước, trầm trồ: “ông” xuất hiện
giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị.
Trong
lúc giới phê bình chưa kịp bàng hoàng trước “niềm kinh dị” ấy thì người con gái
tôi yêu lại ngả lòng trước thằng bạn tôi; một thằng bạn, trước, tôi xếp vào
hạng bất tài và vô danh tiểu tốt: học kém, lười, và tuyệt đối không biết... làm
thơ. Khổ, hắn không biết làm thơ nhưng lại hát hay lạ lùng. Tôi và bạn bè trong
lớp khám phá ra điều ấy trong một buổi văn nghệ cuối năm. Bạn tôi lên sân khấu,
guitar trên tay, hát bài “Mùa thu chết”. Tôi nghe, lặng người. Lặng người,
thoạt đầu, vì xúc động, sau, vì ngưỡng mộ, và cuối cùng, vì ghen tuông: khi
nhìn sang một góc phòng, thấy cách “người yêu” của tôi nhìn thằng bạn tôi, tôi
biết là tôi đã mất cô ấy. Mà mất thật. Sau đó, hai đứa bắt bồ với nhau. Tôi đau
đớn nhận thấy cả mấy trăm bài thơ “không khác và không thua gì thơ Thế Lữ” của
mình không địch nổi bài hát “Mùa thu chết”.
Thất
tình, tôi mở các “thi phẩm” của mình ra đọc lại. Chỉ thấy nhạt. Và dở. Tôi đâm
ra hoang mang. Cất các tập thơ ấy thật kỹ; mấy tháng sau, mang ra đọc lại. Vẫn
thấy nhạt và dở. Hơn cả hoang mang, tôi bàng hoàng, thấy, không phải chỉ mất
một người yêu mà có thể còn mất cả niềm hy vọng trở thành một “nhà thơ lớn”.
Tôi cố không tin điều đó. Tôi xếp các tập thơ vào kệ sách, chờ một ngày bình
tâm sẽ đọc lại, biết đâu sẽ thấy hay... như cũ. Tiếc, cái ngày ấy không bao giờ
đến cả. Càng về sau, đọc lại, tôi càng thấy những bài thơ từng làm mình ngất
ngây và từng được thầy, cô cũng như bạn bè khen ngợi nhiệt liệt ấy, chỉ là
những bài thơ sáo rỗng, nhạt nhẽo và lười biếng. Chúng chẳng có chút gì đáng
gọi là sáng tạo. Chúng chỉ ò e theo những khuôn nhịp đã có sẵn, những cảm xúc
và những tư tưởng đã có sẵn. Có khi đã có sẵn từ nhiều trăm năm trước. Tôi
quyết định đem đốt tất cả các “thi phẩm” của mình. Ðốt sạch. Nghĩ thầm: mình
không thực sự có tài về thơ. Và tự dặn dò mình: Ðừng làm thơ nữa, vô ích.
Nếu
ví văn chương như một canh bạc thì, từ đó đến nay, chưa bao giờ tôi bỏ một đồng
nào trong cái ô gọi là “thơ” cả. Xu thì có; nhưng đồng thì không. Tôi không
muốn mất thì giờ và năng lực vào cái nơi mình biết chắc là không phải sở trường
của mình.
Tuy
nhiên, viết bài này tôi không có chủ ý khoe mình giỏi văn hay chê thơ mình dở.
Tôi chỉ muốn mượn kinh nghiệm học thơ và làm thơ của mình để nói về một chuyện
khác: chương trình giáo dục môn Văn ở Việt Nam, một chương trình, theo tôi, rất
lạc hậu, và không có ích lợi gì trong việc đào luyện văn tài cho các thế hệ
trẻ.
Đó
là lý do tại sao mở đầu bài này tôi đã viết: “có thể tôi đã là một nhà thơ,
không chừng là nhà thơ kha khá, nếu hồi nhỏ tôi không từng là một học sinh quá
giỏi văn.”
Lần
tới, tôi sẽ bàn thêm về chuyện này.
Nhận xét
Đăng nhận xét