Thơ: MỘT THẾ GIỚI ẢO - Nguyễn Hưng Quốc
Thơ: MỘT THẾ GIỚI ẢO
Trong
tiếng Anh, thơ được xếp vào loại phi hư cấu (non-fiction). Trong tiếng Việt,
thơ thường gắn liền với mộng, với mơ, nghĩa là với thế giới của tưởng tượng và
hư cấu.
Vậy, thơ ở đâu?
Thơ,
theo tôi, không thuộc về hiện thực cũng không thuộc về hư cấu. Thơ chỉ là một
cách ảo hoá hiện thực.
Nhận
định này bao gồm ba khía cạnh: thứ nhất, thơ là một thế giới ảo; thứ hai, thế
giới ảo ấy bắt nguồn từ hiện thực; thứ ba, dù bắt nguồn từ hiện thực, thế giới
ảo ấy sẽ không tự động quy chiếu (refer) trở lại hiện thực.
Bài
này xin tập trung vào khía cạnh thứ nhất trước: Thơ là một thế giới ảo.
Khía
cạnh thứ nhất chả có gì mới mẻ. Hàng triệu người, bằng nhiều cách diễn đạt khác
nhau, đã nói như thế, từ mấy ngàn năm nay. Ba hình ảnh đầu tiên và nổi bật nhất
của nhà thơ trong nền triết học cổ đại Hy Lạp là hình ảnh của những người
được/bị thần nhập, hình ảnh của những người điên và hình ảnh của những người
nói dối.
Hai
hình ảnh đầu được Democritos đưa ra, được nhiều người chấp nhận, có ảnh hưởng
sâu đậm, bàng bạc trong tác phẩm của Plato và phảng phất trong tác phẩm
của Aristotle. Hình ảnh sau được đưa ra bởi Solon, người từng than phiền là nhà
thơ hay đặt chuyện (1).
Hai
hình ảnh đầu vốn xuất phát từ kinh nghiệm nhìn trạng thái xuất thần trong lúc
người ta đọc thơ hay diễn thơ, về sau, cùng với sự thoái trào của bi kịch, càng
ngày càng nhạt dần rồi mất hẳn. Hình ảnh sau kéo dài lâu hơn. Plato sở dĩ đòi
đuổi nhà thơ ra khỏi Vương quốc Cộng hoà của ông cũng chỉ vì nhà thơ phản ánh
sai sự thật và vì phản ánh sai sự thật nên thơ, theo ông, thay vì có ích lại
trở thành có hại: một mặt, nó bóp méo chân lý, mặt khác, nó vỗ về những dục vọng
thấp kém của con người (2). Sau này, Dante còn cho thơ là những lời nói
dối mỹ lệ (3). David Hume nhìn các nhà thơ như những kẻ nói dối chuyên
nghiệp (4). Trong Giấc mộng đêm hè(A Midsummmer Night’s Dream), một nhân
vật của Shakespeare đặt nhà thơ bên cạnh tình nhân và người điên: cả ba
đều chủ yếu sống bằng tưởng tượng.
Những
quan điểm trên chứa đựng hai tư tưởng đối nghịch: một mặt, người ta coi thơ hay
văn học nói chung là thế giới tưởng tượng, mặt khác, người ta lại lấy hiện thực
làm tiêu chuẩn để đánh giá thế giới tưởng tượng ấy. Điều này khiến cho người
ta, về phương diện thực hành, tìm cách uốn nắn thơ vào những khuôn khổ chật
chội cho hợp với một số yêu cầu nhất định của xã hội; về phương diện lý thuyết,
thất bại trong việc nhận ra vai trò của tưởng tượng trong thơ và do đó, không
nhận ra được những đặc trưng cơ bản của thơ.
Sự
thất bại trên cũng diễn ra tại Trung Hoa và Việt Nam, đặc biệt trầm trọng tại
Việt Nam. Một là vì cả người Trung Hoa lẫn người Việt Nam, chịu ảnh hưởng của
Nho giáo, đều mang nặng tinh thần thực dụng: thơ chỉ được coi là công cụ của
đạo đức, của chính trị. Vì vậy, vấn đề chức năng của thơ được quan tâm hơn hẳn
bất cứ vấn đề nào khác. Tin tưởng tuyệt đối vào lời dạy của thánh hiền, người
ta không hề băn khoăn tự hỏi tại sao thơ phải có chức năng như thế. Hai là vì,
riêng đối với Việt Nam, cha ông chúng ta không hề có thói quen đi sâu vào các
khía cạnh lý thuyết. Ai cũng làm thơ song không có ai viết được một bài nghiên
cứu nào về thơ cho đến nơi đến chốn. Những ý kiến về văn học từ đầu thế kỷ 10
đến đầu thế kỷ 20 gần đây được sưu tập và in thành sách, một quyển sách dày vẻn
vẹn hơn 200 trang (5) khiến Chế Lan Viên, cầm đọc, không khỏi bâng
khuâng, tự hỏi: “Ít ỏi thế này sao?” (6) Phương Lựu ngầm bào chữa: còn một
số bài viết nữa bị bỏ sót (7). Đành vậy. Nhưng nếu cứ in tất cả những gì chúng
ta có liệu quyển sách sẽ dày thêm được mấy trăm trang? (8)
Ở
Tây phương, mãi đến thế kỷ 17, với Francis Bacon, vai trò trung tâm của tưởng
tượng trong thơ mới được nhìn nhận. Theo Bacon, nếu lịch sử gắn liền với ký ức,
triết học gắn liền với lý trí, thơ sẽ gắn liền với tưởng tượng (9). Các triết
gia thuộc phong trào Khai sáng từ Locke đến Shaftesbury, Hume,
Leibniz và đặc biệt là Kant đã tiếp sức nhau đào sâu vấn đề tưởng
tượng, mở ra nhiều chân trời rộng rãi không những cho thơ mà cả cho thẩm mỹ
học, triết học, tâm lý học, tôn giáo và phê bình (10).
Sự
phát hiện này gợi lên niềm say mê vô hạn cho các nhà thơ lãng mạn cuối thế kỷ
18, đầu thế kỷ 19. William Hazlitt và Percy Bysshe Shelley đều cho
thơ là ngôn ngữ của tưởng tượng. William Blake cho thế giới của tưởng
tượng là thế giới của vĩnh cửu. John Keats tự nhận là ông chỉ mô tả những
gì ông tưởng tượng ra và cho công việc đó còn khó khăn gấp bội công việc của
Lord Byron: Byron chỉ tả những gì ông thấy (11).
Dù
sao, thế giới tưởng tượng của các nhà thơ lãng mạn cũng còn gần gũi với thế
giới hiện thực. Các nhà thơ tượng trưng và siêu thực sẽ đẩy thế giới này ra xa,
thật xa, có khi không còn chút liên hệ nào với thế giới hiện thực này nữa.
Trong bài “Éloge du maquillage”, Baudelaire chối bỏ quan niệm cho chức
năng của thơ là bắt chước hiện thực; trong bài “Bénédiction”, ông có ý so sánh
nhà thơ với Thượng đế; trong bài “Elévation”, ông cho nhà thơ là người có thể
hiểu được ngôn ngữ của các loài hoa. Rimbaud tự nhận là một thi sĩ thấu
thị (voyant), người, bằng trí tưởng tượng của mình, có thể nhìn thấy thánh
đường Hồi giáo giữa công xưởng, giàn trống của các thiên thần, những chiếc xe
kéo rượt đuổi nhau trên giải Ngân hà; người, bằng sự hỗn loạn của mọi giác
quan, có thể nhìn thấy nóc giáo đường chúc xuống đất, hoa biết nhìn và nói, lâu
đài làm bằng xương (12). Breton, đại diện nhóm Siêu thực tại Pháp, tuyên
bố: trong thơ “không có gì là không thể chấp nhận được” (13).
Tư
tưởng của các nhà thơ lãng mạn và phần nào của các nhà thơ tượng trưng và siêu
thực của Pháp, từ đầu thập niên 1930, có ảnh hưởng sâu rộng tại Việt Nam khiến
cho Xuân Diệu có thể định nghĩa nhà thơ là những kẻ mơ theo trăng và
vơ vẩn cùng mây; Thế Lữ tự nhận Tôi là một kẻ mơ màng; Lưu Trọng
Lư cũng tự nhận Thơ ta cũng giống tình nàng vậy / Mộng, mộng mà thôi,
mộng hão hờ! Huy Cận, đi với người yêu, lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng
tượng... Ở miền Nam, thời kỳ 1954-75, nhiều nhà thơ, đi tiên phong là Thanh Tâm
Tuyền, muốn kéo thơ ra khỏi thế giới tưởng tượng thơ mộng và hiền lành của Thơ
Mới, muốn “phá vỡ những giấc mơ quen thuộc... [để] đưa người ta đi tìm sự thật”
(14).
Song,
dù sao, Thanh Tâm Tuyền cũng không hề đòi trục xuất tưởng tượng ra khỏi thơ để
thơ trở thành một tấm gương soi chiếu hiện thực. Điều ông cổ vũ là đổi mới cách
tưởng tượng: tưởng tượng, với các nhà Thơ Mới, vốn gắn liền với cảm xúc, thường
nhẹ nhàng, như những tiếng ru, dẫn người đọc đi xa, ra khỏi cuộc đời; với Thanh
Tâm Tuyền, gắn liền với ý thức, chứa đầy dằn vặt, như những tiếng thét, kéo
người ta ra khỏi giấc mơ để đối diện với những đổ vỡ, những hoả hoạn, những
thiên tai ngay chính trong tâm hồn của mình. Tưởng tượng, với các nhà Thơ Mới,
nghiêng về khía cạnh thoát ly; với Thanh Tâm Tuyền, nghiêng về khía cạnh nhận
thức; với các nhà Thơ Mới, nảy sinh từ đời sống nông thôn, với Thanh Tâm Tuyền,
từ đời sống thành thị; với các nhà Thơ Mới, mang màu sắc lãng mạn chủ nghĩa,
với Thanh Tâm Tuyền, mang màu sắc hiện đại chủ nghĩa.
Điều
thú vị là ngay cả những người chủ trương trong thơ phải có “thép”, ngòi bút
phải là vũ khí làm “xoay chế độ” cũng không hề phủ nhận vai trò của tưởng tượng
trong thơ. Sóng Hồng - tức Trường Chinh - người một thời được coi là
lý thuyết gia của Đảng cộng sản Việt Nam và là người lãnh đạo tối cao trong
lãnh vực văn học nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, cũng coi “thơ là nghệ
thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng” (15).
Như
vậy, về vai trò của tưởng tượng trong thơ, các nhà thơ chỉ khác nhau ở mức độ
tự giác nhiều hay ít, ở việc nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh kia của năng
lực tưởng tượng.
Tuy
nhiên, ở đây, xuất hiện một vấn đề: rõ ràng tưởng tượng không phải là đặc quyền
của thơ. Mọi khám phá trong khoa học, mọi phát minh trong kỹ thuật, dù lớn dù
nhỏ, đều bắt nguồn từ tưởng tượng. Ngay cả trong lịch sử, vai trò của tưởng
tượng cũng không nhỏ: không có lịch sử chung chung, phổ quát cho tất cả mọi
người, chỉ có lịch sử như câu chuyện của ông này (his-story), của bà nọ
(her-story) theo kiểu chơi chữ thường được các học giả Âu Mỹ sử dụng.
Có
điều, sự tưởng tượng trong khoa học và sự tưởng tượng trong thơ khác nhau.
Một
là, tưởng tượng trong khoa học cần được chứng minh; tưởng tượng trong thơ chỉ
cần thuyết phục.
Hai
là, tưởng tượng trong khoa học là đi từ cái đã biết đến cái chưa biết, nghĩa là
nó dựa trên nền tảng của những tưởng tượng đã được chứng minh của người trước,
do đó nó là sự vận động và tiến bộ liên tục, ngược lại, trong thơ, những yếu tố
này đều vắng mặt.
Ba
là, như là hệ quả của đặc điểm thứ nhất, tưởng tượng trong khoa học được phân
biệt thành hai loại: đúng và sai, trong thơ, vấn đề này không hề được đặt ra,
không ai muốn và không ai cần đặt ra. Người ta chấp nhận nó, như là một thế
giới tưởng tượng, vĩnh viễn.
Bốn
là, như là hệ quả của đặc điểm thứ hai, tưởng tượng trong khoa học là cái gì có
thể bị vượt qua, rất mau cũ; tưởng tượng trong thơ, trái lại, cứ mới mãi, tinh
khôi mãi. Không ai đọc lại các luận văn khoa học ngày xưa trừ lý do tò mò, muốn
lần lại những chặng đường lịch sử đã qua của nhân loại. Nhưng hiện nay chúng ta
vẫn tiếp tục đọc thơ Đường, thơ Tống của Trung Hoa, thơ đời Lý, đời Trần của
Việt Nam, dĩ nhiên không phải chỉ vì muốn nghiên cứu cái gì mà chủ yếu, trước
hết là vì nhu cầu thưởng thức những giá trị thẩm mỹ đã trở thành bất hủ.
“Bất
hủ”: từ này hầu như chỉ được dùng trong lãnh vực văn học nghệ thuật. Ở các lãnh
vực khác, may lắm, chỉ có sự bất tử. Bất tử chưa chắc đã là bất hủ.
Chú
thích:
1.
Xem Stanford, W.B. (1980), Enemies of Poetry, Routledge & Kegan Paul,
London.
2.
Plato, Republic.
3.
Robert S. Haller (biên tập) (1973), Literary Criticism of
Dante Alighier, Nebraska, Lincoln, tr. 112.
4.
Hume, D. (1960), A Treatise of Human Nature, L.A. Selbye-Bigge biên tập,
tr. 121.
5.
Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981), Từ trong di sản, Tác Phẩm Mới, Hà
Nội.
6.
Trong bài "Thay lời tựa" của Từ trong di sản, tr. 3.
7.
Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Giáo dục, Hà
Nội, tr. 16-17.
8.
Gần đây Đỗ Văn Hỷ mới cho in quyển Người xưa bàn về văn chương(nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993), tập 1, dày 248 trang. Soạn giả, trong “Lời nói
đầu”, cho biết bộ sách sẽ gồm nhiều tập nhưng không nói cụ thể là bao nhiêu.
9.
Theo Alex Preminger (chủ biên) (1986), The Princeton Handbook of Poetic
Terms, Princeton University Press, Princeton, tr. 99.
10.
Xem quyển The Creative Imagination, Enlightenment to Romanticism(1981) của
Janes Engell, Harvard University Press xuất bản và quyển The Quest for
Imagination (1971) do O.B. Hardison, Jr. biên tập, The Press of Case
Western Reserve University xuất bản tại Cleveland.
11.
Foakes, R.A. (1968), Romantic Criticism, Edward Arnold, London.
12.
Xem Cardinal, R. (1981), Figures of Reality, Croom Helm, London.
13.
Breton, A. (1970), Point du jour, Gallimard, Paris, tr. 26.
14.
Thanh Tâm Tuyền, "Nỗi buồn trong thơ hôm nay", Giai phẩm
Văn(Saigon), tháng 11.1973, tr. 64-71, in lại trong Bốn mươi năm thơ Việt
Nam 1945-1985 của Thi Vũ, Quê Mẹ, Paris, 1993, tr. 274-280.
15. Thơ
Sóng Hồng, Văn Học, Hà Nội, 1983, tr. 10.
Nhận xét
Đăng nhận xét