Kỳ 101 -NHÀ MINH ĐỔI TƯỚNG THÊM TỘI ÁC VUA TRẦN NAM TIẾN TÍNH KÊ LÂU DÀI
Kỳ 101
NHÀ MINH ĐỔI TƯỚNG THÊM TỘI ÁC
VUA TRẦN NAM TIẾN TÍNH KÊ LÂU DÀI
Sau khi bại trận tại Mô Độ, nhà Hậu Trần đã mất đi một chốt chặn thủy
quân nước Minh tiến xuống theo đường biển, cửa ngõ tiến vào Thanh Hóa cũng mở
toang trước mắt quân Minh. Nhiều nơi ở phía bắc Thanh Hóa rơi vào tay giặc mà hầu
như không có sự kháng cự nào đáng kể. Quân Hậu Trần tập trung về giữ Nghệ An là
đất căn bản của nhà Hậu Trần lúc bấy giờ, nơi mà Trùng Quang đế đóng hành
doanh.
Quân Minh tuy thắng trận nhưng cũng chưa dễ dàng tung ra đòn kết liễu.
Để có được chiến thắng tại Mô Độ, giặc đã chịu những tổn thất không nhỏ về nhân
mạng và thuyền bè. Đến khi tiến quân vào Thanh Hóa thì nhân dân rủ nhau trốn
tránh, bất hợp tác, và kháng cự quyết liệt khiến quân Minh mất đi đáng kể nguồn
hậu cần tại chỗ từ việc cướp bóc, trưng thu lương thực trong dân. Trong khi đó
thì ở Nghệ An, quân Hậu Trần đã kịp tổ chức tuyến phòng thủ mới. Trước tình
hình đó, Trương Phụ đã lệnh cho ngụy quan các xứ Tam Giang, Tuyên Hóa điều động
ngụy quân, dân chúng đóng thêm chiến thuyền để bù đắp vào thiệt hại trước đó và
tăng cường thêm sức mạnh thủy quân. Có lẽ sau trận chiến tại Mô Độ, Trương Phụ
càng nhận thức rõ sự tinh nhuệ của thủy quân nhà Hậu Trần.
Chiến sự tại Đại Việt lúc này ưu thế đang nghiêng về quân Minh dưới sự
chỉ huy của Trương Phụ, nhà Hậu Trần chỉ còn đủ sức giữ lấy phần đất từ Nghệ An
trở vào nam. Thế nhưng quân Minh vẫn chưa đủ điều kiện để diệt được nhà Hậu Trần.
Trương Phụ càng dẫn quân tiến sâu về phía nam, việc tiếp tế lương thực cho đạo
quân đông đúc của hắn càng trở nên khó khăn. Thêm nữa, nguy cơ vùng Kinh lộ thừa
lúc quân Minh đi đánh xa mà vùng lên vẫn luôn hiện hữu. Tình hình này khiến cho
vua Minh là Chu Đệ nóng lòng. Vì vậy, hắn đã quyết định gửi thêm quân tiếp viện
và nhiều quân lương để sớm kết thúc cuộc chiến, hoàn toàn khuất phục dân tộc Việt.
Đầu mùa thu 1412, tướng Minh là Hàn Quang, chức Hữu quân đô đốc đồng
tri nhận lệnh vua Minh mang ấn “Chinh Nam tướng quân”, đem 1 vạn hộc lương và
viện binh sang tăng cường cho Trương Phụ. Hàn Quang được phong chức Tổng binh,
là chức quan mà Minh triều phong cho những tướng soái cầm quân đi đánh xa. Chức
Tổng binh cũng là chức mà Trương Phụ trước đó đã được phong. Điều này cho thấy
rằng những diễn biến chiến sự ở Đại Việt đã khiến cho vua Minh không hài lòng về
Trương Phụ. Dù vậy, mọi diễn biến về sau cho thấy trên thực tế Trương Phụ vẫn
là tướng soái chỉ huy chung nhất của quân Minh ở chiến trường Đại Việt.
Đồng thời với việc tăng cường quân tiếp viện và lương thực cho việc đàn
áp, Chu Đệ tiếp tục dùng chính sách chiêu dụ. Vua Minh xuống chiếu “dạy dỗ” những
ngụy quan và ru ngủ quân dân, kỳ lão nước ta :
“Trẫm vâng mệnh trời, thống trị
thiên hạ, chỉ mong cho dân thiên hạ được yên ổn, Giao Chỉ ở xa tận ven biển,
xưa là đất của Trung Quốc, nay đã lại như cũ, binh lính và dân chúng theo về
giáo hóa đến nay đã mấy năm rồi, đã đặt mục, bá, thú, lệnh và quân, vệ, ty, chọn
dùng những người trung lương, hiền năng để vỗ trị. Trẫm sớm khuya nghĩ đến, còn
lo rằng đất xa dân đông, giáo hóa có chỗ không thấu tới, không được thấm ơn trạch
yêu thương, nuôi nấng của nhà nước.
Nay bọn các ngươi đều là bề tôi
trung lươmg, phải thể lòng kính trời thương dân của trẫm, hưng lợi trừ hại cho
dân, thuận theo lòng yêu ghét của dân mà trừ bỏ mối gian tệ cho dân. Dạy dân
cày ruộng, trồng dâu, khiến cho không trái thời vụ thì áo mặc, cơm ăn có chỗ
trông cậy. Dạy dân bằng hiếu, để, trung, tín, khuyên dân điều lễ nghĩa, liêm
sĩ, thì phong tục sẽ tốt lành. Khi tang ma, hoạn nạn thì thương xót giúp đỡ lẫn
nhau. Lúc khốn cùng long đong thì chu cấp phù trì cho nhau. Người già phải dạy
con trẻ, kẻ dưới phải kính bề trên, ai nấy phải thuận theo bản tính, không được
làm trái với lễ. Chớ có làm trộm cướp, chớ có đi lừa dối, chớ múa may văn
chương mà đùa với luật pháp, chớ theo ý riêng mà bỏ lẽ công, muốn cho dân chúng
an cư lạc nhgiệp, mãi mãi là dân trời vô sự, để cùng vui thời thịnh trị thái
bình, thì bọn các người phải thận trọng với chức vị của mình, làm tròn công việc
của mình, theo được đức y thay trời nuôi dân của trẫm, để có thể sánh vai với
những bậc thuần lương đời xưa, tên tuổi chiếu sáng sử xanh, thế chẳng tốt đẹp lắm
sao !” (!?) (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Về mặt văn chương và ý tứ của vua Minh, có thể nói là một văn bản đầy lời
lẽ tốt đẹp. Thế nhưng trên thực tế đây vẫn chỉ là một thủ đoạn chính trị quen
thuộc. Và trước những hành động thực tế hoàn toàn trái ngược với những tờ chiếu
dụ, cũng chẳng mấy người nước ta tin vào lời của vua Minh. Một số kẻ đã rắp tâm
làm tay sai cho giặc thì chẳng qua để mưu cầu danh lợi. Một số khác, phải luồn
cúi trước cửa quân nước Minh cũng chỉ để giữ thân cầu sống, tìm kiếm sự yên ổn
chứ chẳng ai thiết tha gì với những lời rao giảng về nhân nghĩa giả trá của giặc.
Lại nói Hàn Quang khi đem quân tiến sang Đại Việt, đã đóng đại quân ở
thành Đông Quan để giữ vững mặt sau cho Trương Phụ có thể dốc toàn lực tấn công
nhà Hậu Trần. Được sự hậu thuẫn của quân tiếp viện ở tuyến sau, tháng 10.1412
Trương Phụ cất quân vào đánh Nghệ An, Diễn Châu. Đúng với bản chất giả trá tàn
bạo, trong khi những văn bản chiêu an của vua Minh còn chưa ráo mực thì quân
Minh dưới trướng Trương Phụ đi đến đâu là tàn sát, cướp bóc man rợ đến đó. Việc
cướp giết của giặc vừa để trả thù nhân dân các xứ Thanh Nghệ đã đóng góp nhiều
cho nhà Hậu Trần, vừa để khủng bố tinh thần quân dân cả nước.
Vua Trùng Quang nhận thấy lực lượng quá chênh lệch nên phải cùng các tướng
bỏ Nghệ An, đem đại quân tiếp tục vượt biển lui về nam. Thiếu bảo Phan Quý Hữu
cùng một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ lưu thủ Nghệ An để cầm chân Trương Phụ.
Quân Minh tiến đánh Phan Quý Hữu ở sông Ác, huyện Thổ Hoàng, phủ Nghệ An (tức
sông Ngàn Sâu, Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay). Phan Quý Hữu không đánh nổi quân
Minh, rút lên núi Khả Lôi cố thủ. Trương Phụ đem quân bao vây núi. Phan Quý Hữu
có quân tinh nhuệ trong tay nhưng không có lòng quyết chiến, sai con là Phan
Liêu đến gặp Trương Phụ xin hàng. Phụ chấp thuận, cho Phan Quý Hữu làm Tri phủ
Nghệ An, Phó sứ ty Án sát Giao Chỉ.
Trước đây, Phan Quý Hữu cùng Đặng Tất đều làm quan nhà Hồ, thế lực có
thể gọi là tương đương nhau. Đến khi nhà Hồ sụp đổ, cả hai họ Đặng và họ Phan đều
phải theo hàng quân Minh. Sau đó Đặng Tất phò vua Giản Định, chiêu hàng được
Phan Quý Hữu về với nhà Hậu Trần. Quý Hữu tuy hàng Hậu Trần, cũng chỉ là làm
tròn vai để mong được yên ổn. Vua Trùng Quang phong chức cao, chẳng qua vì nể
nang thế lực Phan gia. Chính vì có lý lịch hay trở cờ như thế nên thật dễ hiểu
với hành động đầu hàng của Phan Quý Hữu.
Vì nhà vua đã bỏ Nghệ An vào nam và tướng có quân đông mạnh nhất là
Phan Quý Hữu đã hàng, nên các tướng quân còn lại của nhà Hậu Trần càng dễ dàng
dao động. Một loạt tướng lĩnh theo gót Phan Quý Hữu đầu hàng Trương Phụ gồm có
Trần Mẫn, Nguyễn Sĩ Cần, Trần Toàn Úc, Trần Toàn Mẫn, Trần Lập, Nguyễn Sảng,
Nguyễn Yểm, Nguyễn Điệu… Điều này cho thấy tình cảnh bi đát của nhà Hậu Trần.
Và nó cũng thể hiện được rằng nhà Hậu Trần được xây dựng từ những nền tảng
không vững chắc. Các thế lực quân phiệt địa phương có sự tự trị rất cao. Một
khi nhà vua không còn đủ sức để chế ngự, thì không có gì đảm bảo cho lòng trung
thành của các đầu mục. Mất đi vùng đứng chân quan trọng là hai xứ Thanh – Nghệ,
vua Trùng Quang đế chỉ còn lại các xứ phương nam là Tân Bình, Thuận Châu, Hóa
Châu. Các nơi này xét về nhân lực, vật lực đều rất khiêm tốn không đủ sức để
cho nhà Hậu Trần dựa vào mà tiếp tục cuộc chiến dai dẳng với quy mô khá lớn.
Tuy nhiên bất chấp những điều đó, Trùng Quang đế cùng một số tướng lĩnh kiên cường
và những chiến binh dũng cảm vẫn kiên quyết chiến đấu đến cùng với quân Minh.
Nhà Hậu Trần vẫn chưa dừng lại hành trình viết lên những trang sử bi tráng của
mình.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét