VỀ CẢI TIẾN CHỮ QUỐC NGỮ THEO SÁNG KIẾN ÔNG BÙI HIỀN
VỀ CẢI TIẾN CHỮ QUỐC NGỮ
THEO SÁNG KIẾN ÔNG BÙI HIỀN
Ba ngày nay tôi bận công tác tận
biên giới Việt – Cam, không theo dõi mạng được. Trước đó tôi đã thấy một bạn
share bài viết của PGS.TS. Bùi Hiền, tôi chỉ cười vì… không lạ.
Trong Hội thảo Ngôn ngữ ở Việt
Nam – Hội nhập và Phát triển tổ chức tại Trường ĐH Quy Nhơn, vào buổi sáng tại
phiên thảo luận chung ở Hội trường 13, có một PGS không được ban điều hành chọn
báo cáo chính thức đã đứng lên phát biểu về việc cải tiến chữ quốc ngữ. Lý do
đúng như bài viết của ông Bùi Hiền. Tôi bật cười, vì đây không phải lần đầu tôi
được nghe giới ngữ học ở Việt Nam đề xuất.
Buổi chiều, tại tiểu ban ở Hội
trường 13, PGS.TS. Lê Đức Luận (ĐH Đà Nẵng) nhắc lại ý kiến của vị đại biểu buổi
sáng về sự cấp thiết cải tiến chữ quốc ngữ “để hội nhập và phát triển”. Tôi
không nhịn được nên đã đứng lên phản bác thẳng thừng. Tôi bảo đó là sự hồ đồ,
thiếu hiểu biết của không ít “chuyên gia” ngôn ngữ học ở Việt Nam.
Một là, ngôn ngữ, dù là âm thanh
hay chữ viết, đều là khế ước của cộng đồng, không cá nhân, thậm chí là nhóm người
thiểu số nào, có thể áp đặt một cách duy ý chí. Đến mức quyền lực to như cụ Hồ
cũng không thể áp đặt. Bằng chứng: cách viết gi thành j, c thành k, ph thành f,
d thành z… của cụ thời đó cũng không ai học tập và làm theo. Ngay cả gợi ý thuần
Việt hóa từ Hán Việt như “nữ ca sĩ” thành “người hát gái”, “nhà hộ sinh” thành
“xưởng đẻ”, “phi công” thành “giặc lái”… của cụ bị người ta đem ra đùa vui, mặc
dù cụ chưa bao giờ có ý đồ áp đặt.
Hai là, vì ngôn ngữ là khế ước của
cộng đồng và ký hiệu luôn tồn tại có tính hệ thống, cho nên mọi sự thay đổi, dù
nhỏ nhất, đều có thể gây rối loạn cả hệ thống và khó có thể được cộng đồng chấp
nhận. Đơn giản như tín hiệu giao thông, chỉ cần thay đổi hay xáo trộn một tín
hiệu là rối loạn cả hệ thống giao thông và gây nguy hiểm, huống hồ là ngôn ngữ
chứa đựng trong nó cả kho tàng tri thức và văn hóa. Sự thực là chỉ thay mỗi y với
i, dù không ảnh hưởng mấy đến hệ thống mà gần nửa thế kỷ nay vẫn không thống nhất
được. Cho nên, đối với ngôn ngữ, một cải tiến dù hợp lý cũng có thể gây trục trặc
trong giao tiếp, đặc biệt là tạo ra sự đứt gãy về tri thức và văn hóa. Đó là lý
do, mọi nỗ lực của cha ông ta từ chữ Hán chuyển sang chữ Nôm rồi chữ Quốc ngữ
như hiện nay phải trải qua hàng thế kỷ và phải trả giá rất đắt. Các văn bản chữ
Hán và chữ Nôm cả ngàn năm của cha ông đã và đang trở thành kho tàng bí mật và
mai một không thể cứu vãn. Sự thay thế chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ 20 là tình
thế bất đắc dĩ với nhu cầu thoát Hán triệt để để có được độc lập, nhu cầu đại
chúng hóa giáo dục để nâng cao dân trí, kể cả nhu cầu hội nhập để phát triển.
Ba là, cũng vì tính quy ước và
tính hệ thống, cho nên mọi thay đổi về âm lẫn chữ viết đều buộc phải diễn ra rất
chậm, điều chỉnh từng bước trong nội bộ của cộng đồng. Tính quy ước và tính hệ
thống đã tạo nên một sự ràng buộc đến mức một cá nhân hay một nhóm người tham vọng
thay đổi khác nào đứng ra thúc đẩy cả một cỗ máy dây chuyền khổng lồ. Để hình
thành chữ viết như hiện nay, tiếng Việt (cũng như mọi thứ tiếng) phải chuyển dịch
chậm chạp qua hàng thế kỷ bởi yêu cầu đạt sự thỏa thuận chung chứ không do cá
nhân hay một nhóm người nào áp đặt tức thời mà được.
Bốn là, chữ viết, dù là ghi âm
cũng mang tính võ đoán, tức không có lý do gì cái chữ cái ấy lại ghi cho cái âm
ấy. Ký tự vẫn luôn luôn là sự nhận diện của thị giác khác biệt với sự nhận diện
thính giác. Cho nên, không chỉ tiếng Việt, đến tiếng Anh, tiếng Pháp với khả
năng hội nhập toàn cầu mà vẫn có vô số từ viết một đằng đọc một nẻo. Nhân đây
cũng nói luôn, việc báo Đảng chủ trương và duy trì phiên âm tên người nước
ngoài là việc làm trì độn gây lú lẫn cho người đọc. Một cái tên Trump hay
Obama, dù người đọc không biết tiếng Anh vẫn nhận diện ra các ông có tên ấy hơn
là phải viết thành Trăm, Trâm-pơ, Ô-ba-mơ, Op-ba-ma, chẳng ra ông gì.
Năm là, chữ viết có quy luật
khác với tiếng nói. Trong lần tranh luận về vụ Từ điển Nguyễn Lân, tôi có viết:
“… TS. Nghiêm Thúy Hằng đồng hóa chữ viết với phát âm, buộc phải chấp nhận âm
thanh làm thay đổi chữ viết là nhầm lẫn nghiêm trọng, cả về lý thuyết lẫn thực
tiễn. Trong khi chữ viết và phát âm tồn tại độc lập và diễn ra theo quy luật
khác nhau. Như trong bài viết về Differance, tôi đã nói, chữ viết không là cái
ký sinh và phụ thuộc phát âm. Phát âm có thể lệch chuẩn theo xu hướng bình dân
hóa, thổ ngữ hóa, thậm chí địa phương hóa, ngọng hóa… tràn lan, nhưng chữ viết
luôn có xu hướng đòi hỏi được chuẩn hóa và thống nhất với tính quy ước rất cao.
Đó là 2 quy trình ngược chiều. Hiện tượng Việt hóa Hán ngữ trong ngàn năm Bắc
thuộc nằm trong quy luật này: giới nho học vẫn chuẩn hóa chữ viết và âm đọc,
trong khi giới bình dân thì thổ ngữ hóa, nôm hóa âm đọc theo cách của họ dẫn đến
các biến tấu: hợp chúng quốc = hợp chủng quốc, trú sở = trụ sở, ái tình = tình
ái, tình yêu, sáp nhập = sát nhập… Đến khi được Latin hóa thì tất yếu phải ghi
nhận âm đọc phổ thông theo hướng đã nôm hóa. Sự chấp nhận này vẫn được sàng lọc
và chuẩn hóa bởi 1) Chấp nhận Latin hóa theo cách đọc phổ thông những hiện tượng
phù hợp với ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa theo cảm thức và kinh nghiệm, kể cả
thẩm mỹ của người Việt. Điều này diễn ra không chỉ đối với Hán ngữ mà ngay cả
khi ta vay mượn tiếng Tây, 2) Chọn lựa cái tích cực và phổ biến, loại trừ cái
tiêu cực và ít phổ biến để hướng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Trong sáng ở
đây mang nghĩa là thông suốt trong giao tiếp.”
Nói thêm, khái niệm “chuẩn hóa”
cũng là một quy ước. Không có chuyện “chuẩn hóa” là tạo ra quan hệ sít sao giữa
tiếng nói và chữ viết. Chuẩn hóa chỉ mang nghĩa là sự thống nhất cao trong cộng
đồng bản ngữ để thực hiện giao tiếp tốt nhất.
Việc đề xuất cải tiến chữ quốc
ngữ như Bùi Hiền và Lê Đức Luận là vô căn cứ và không theo quy luật nào. Đó là
tôi chưa nói, nhiều chữ cái Latin trong bảng chữ cải tiến của ông Bùi Hiền có
cơ sở nào để ghi âm đọc của người Việt như chữ q đọc là “ngờ”, w đọc là “thờ”,
c đọc là “chờ”…? Đòi ghi đúng âm thì phải theo chuẩn quốc tế chứ kí âm tùy tiện
như thế thì hội nhập kiểu gì?
Cuối cùng Lê Đức Luận vẫn cãi với
cái lý Hán nô: “Tại sao người Hán thay chữ phồn thể thành giản thể được mà người
Việt ta lại không?” Chẳng lẽ tôi bảo ông ta đổi dòng máu Việt thành dòng máu
Hán? Thực ra chữ Hán giản thể không phải chờ đến thời kỳ hiện đại mới có. Lối
viết thảo của các nhà thư pháp đã là giản thể và có trước cả ngàn năm. Người
rành phồn thể có thể đọc được giản thể và người học giản thể gặp khó khăn không
đáng kể khi đọc chữ phồn thể. Nhưng cải tiến như đề xuất của Bùi Hiền và Lê Đức
Luận thì coi chừng “em ôm chặt anh” viết thành “em ôm cặt anh” và ngược lại “Tiến
sĩ dụ con nít” bị đọc thành “Tiến sĩ đụ con nít”!
Trong một bài trả lời phỏng vấn,
ông Bùi Hiền cho rằng bảng chữ cải tiến của ông rất dễ, chỉ cần học một ngày là
xong. Vấn đề không phải dễ hay khó mà giữa cũ và mới sẽ sinh ra chập cheng như
ví dụ trên kia. Nhà trường không phải là trại tâm thần!
Xem ra không một Bùi Hiền mà có
cả Lê Đức Luận, không một Lê Đức Luận mà có cả Nghiêm Thúy Hằng… hiểu sai và
chơi ngông, chơi trội để móc dự án tiêu tiền. Nếu không thì là do mấy ngài giáo
sư tiến sĩ ngữ học của ta hồi nhỏ từng bị phạt viết sai chính tả nên thù địch với
chữ viết hiện hành!
Chu Mộng Long:
https://chumonglong.wordpress.com/2017/11/28/ve-cai-tien-chu-quoc-ngu-theo-sang-kien-bui-hien/
Nhận xét
Đăng nhận xét