Kỳ 100 -NHÀ MINH NỂ SỢ ĐẶNG DUNG, NẾU CÒN ĐẶNG TẤT GIẶC SẼ TAN
Kỳ 100
NHÀ MINH NỂ SỢ ĐẶNG DUNG
NẾU CÒN ĐẶNG TẤT GIẶC SẼ TAN
Trận Mô Độ là một trong những trận đánh lớn nhất trong giai đoạn nhà Hậu
Trần chống quân Minh. Vua Trùng Quang coi vùng Trường Yên như một tuyến phòng
thủ từ xa để bảo vệ căn cứ địa, nên đã điều động những lực lượng ưu tú nhất mà
mình có để chiến đấu tại vùng này. Về phần các tướng lĩnh Hậu Trần, việc lựa chọn
quyết chiến tại vùng cửa biển, địa hình phức tạp giúp cho quân HậuTrần có thể hạn
chế tối đa sở trường của giặc. Thế nhưng quân Minh là một đạo quân khá toàn diện
về các binh chủng. Mặc dù kỵ bộ vẫn là sở trường của quân Minh cũng như các
quân đội phương bắc, thủy quân của giặc cũng khá tinh nhuệ, và nhất là được
trang bị các thuyền chiến tốt, có lợi thế về quân số so với quân ta.
1.
Diễn
biến trận Mô Độ
Ngày 6.9.1412, sau những ngày dài vừa hành quân vừa quần nhau với quân
Hậu Trần, quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, Mộc Thạnh, Phương Chính… tiến
đến dọc sông Đáy, nhằm hướng cửa biển Thần Phù, thuộc Mô Độ, Yên Mô, Trường Yên
để ra biển. Quân Hậu Trần với lực lượng gồm 400 chiến thuyền, dưới quyền chỉ
huy của các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Hồ Bối… đã bày sẵn thủy
trận trên sông đón đánh. Nhác trông thấy thuyền của quân ta, Trương Phụ với lực
lượng mạnh trong tay, không ngần ngại sai Đô chỉ huy Phương Chính dẫn đội thuyền
tiên phong hàng trăm chiếc hùng hổ xáp lại, còn Phụ thì tiến sau với đội thuyền
chủ lực. Kỵ binh quân Minh vốn vẫn hành quân ven bờ để hộ tống hạm đội chủ lực,
nay không thể theo kịp vì địa hình địa vật phức tạp trên đường ra cửa biển. Dù
vậy, Trương Phụ vẫn tự tin với hạm đội của mình.
Bấy giờ gió bắc đang thổi, thuyền giặc có lợi về hướng gió. Thời kỳ
này, các chiến thuyền vẫn dùng buồm để tận dụng gió làm tăng tốc độ của thuyền
bên cạnh các tay chèo. Quân Hậu Trần không vội giao tranh, mà cũng xuôi theo chiều
gió chèo ngược ra hướng cửa biển. Hai đoàn thuyền lướt nhanh rượt đuổi nhau.
Quân Hậu Trần vừa ra đến cửa biển thì theo kế sách tản ra thành ba đội. Trong
thời khắc đó, phần lớn hạm đội quân Minh vẫn còn ở trong sông, không gian chật
hẹp hơn nên không thể dàn trận hết được, mà đội hình các thuyền vẫn đang nối
đuôi nhau thành những hàng dài. Đó là tính toán rất lợi hại của tướng lĩnh Hậu
Trần. Lúc này, quân Hậu Trần đã hình thành thế trận lấy ít vây nhiều. Chỉ có
như vậy, quân Hậu Trần mới có cơ hội đánh thắng quân Minh vượt trội hơn cả về
trang bị lẫn quân số, lại đang ở thế thượng phong (từ trên gió đánh xuống).
Khi thế trận đã hình thành như dự kiến, Đặng Dung hạ lệnh toàn quân
quay thuyền lại đánh. Thủy quân Hậu Trần rất tinh nhuệ, cùng quân Minh đánh
nhau dữ dội. Khắp vùng biển vang rền tiếng súng từ hai phía. Cuộc đấu pháo giữa
các thuyền xen lẫn với những màn giáp chiến. Thủy quân ta dùng câu liêm móc vào
thuyền giặc, nhảy lên thuyền đánh xáp là cà. Gươm giáo tua tủa vang động khắp
chiến trường. Nguyễn Súy đốc suất một nhánh quân chiếm lĩnh chỗ đất ven bờ, từ
trên bộ bắn tên và đạn pháo hỗ trợ cho thủy quân ta diệt giặc. Quân ta khiến đội
thuyền tiên phong của Phương Chính bị thiệt hại nặng nề. Trương Phụ phải tự
mình lên tuyến đầu, đốc thúc quân lính liều chết mà xông lên. Quân Minh cũng
chia làm ba mặt, cố sức đánh thốc ra biển. Thuyền giặc to lớn, nhân hướng gió
thuận chèo nhanh đâm thẳng vào thuyền của quân ta, hễ chiếc trước chìm vỡ thì
chiếc sau lại xông tới.
Bấy giờ bên quân Hậu Trần thì dựa vào địa lợi, bên quân Minh dựa nhờ
vào thiên thời.
Đồng bình chương sự Đặng Dung là vị tướng dũng mãnh nhất trong quân Hậu
Trần, không quản gian lao cùng các binh sĩ chiến đấu với giặc ngay ở tuyến đầu,
xông pha giữa trận, ai chống là chết. Thấy chủ tướng gan dạ như thế, nhuệ khí của
quân Hậu Trần càng dâng cao, khiến cho quân Minh khốn đốn, trận thế bắt đầu rối
loạn. Trương Phụ cũng chẳng phải dạng vừa, quyết không để Đặng Dung mặc sức
tung hoành. Chủ tướng quân Minh thấy thế quân mình chùn xuống, cũng dẫn các cận
vệ, thuộc tướng bên cạnh xông lên trước, mặt giáp mặt với cánh quân của Đặng
Dung, hai bên đều liều chết đánh nhau bất phân thắng bại.
Trong khi cánh quân của Đặng Dung chiến đấu vô cùng dũng cảm thì bước
ngoặc quyết định của trận chiến lại đến từ hướng khác. Các tướng Nguyễn Cảnh Dị,
Nguyễn Súy, Hồ Bối cầm cự với quân Minh hồi lâu, bị giặc công kích dữ dội.
Trương Phụ sai một cánh quân đổ bộ đi xuyên qua rừng nứa, nửa đêm đánh vào khối
quân của Nguyễn Súy. Vì thiếu phòng bị, Nguyễn Súy không chống nổi, đơn phương
hạ lệnh cho quân mình xuống thuyền rút lui khỏi trận. Đây là một quyết định làm
thay đổi toàn bộ cục diện trận chiến. Nguyễn Cảnh Dị thấy cánh quân Nguyễn Súy
rút, cũng cho quân rút theo. Vòng vây mà quân Hậu Trần đã dày công toan tính bỗng
chốc bị thủng hai mảnh lớn. Thuyền quân Minh từ trong sông thừa thế tràn ra khắp
mặt biển, hình thành thế bao vây ngược lại.
Bấy giờ đội thuyền dưới trướng phò mã Hồ Bối còn đang chiến đấu ở gần
trong nội thủy, phút chốc bị thuyền quân Minh dày đặc vây quanh, che cả lối
thoát ra biển. Thấy thế không thể thủ thắng nổi nữa, Hồ Bối nhanh trí lệnh cho
quân mình bỏ thuyền lên bờ, rút lui theo đường rừng. Quân Minh không đuổi theo
các hướng quân Hậu Trần rút lui mà dồn hết lực lượng nhắm vào khối quân của Đặng
Dung mà đánh diệt. Đặng Dung cùng các chiến sĩ dưới trướng bị đồng đội bỏ rơi lại,
đơn độc chiến đấu giữa muôn trùng vây quân Minh.
Giữa tình cảnh thập tử nhất sinh, Đặng Dung cùng thuộc hạ chỉ còn cách
liều chết mở một con đường máu phá đột phá vòng vây, thoát ra biển để rút về
phương nam theo đồng đội. May thay, vòng vây của quân Minh vẫn chưa thể khép
kín ngay được mà vẫn còn những khoảng trống phía ngoài mặt biển. Đặng Dung cùng
quân sĩ tả xung hữu đột, rốt cuộc cũng thoát được ra biển mà rút về nam. Trương
Phụ đắc thắng thúc quân giương buồm đuổi theo truy kích sát rạt, dùng câu liêm
móc các thuyền quân ta lại để đánh giết. Đặng Dung phải dùng thuyền nhẹ chèo
nhanh để thoát. Quân sĩ dưới trướng Dung vốn đã mệt mỏi vì trận chiến, vừa xả
thân đánh chặn cho chủ tướng vừa rút theo sau. Nhiều người ngã xuống dọc đường
rút khỏi trận địa, tình cảnh vừa bi vừa hùng. Sau hồi truy đuổi, Trương Phụ hạ
lệnh thu quân để tổ chức lại lực lượng trước khi tiếp tục cuộc tiến công vào
Thanh Hóa, Nghệ An.
2.
Kết
quả và nhận định
Trận này diễn ra từ sáng sớm ngày 6.9 đến tận trưa ngày 7.9.1412, đánh
liên tục không ngừng nghỉ. Quân Hậu Trần bị thiệt hại hàng ngàn quân, nhiều
thuyền bị đắm và bị giặc cướp. Minh Thực Lục chép rằng có hơn 1.000 quân và 75
tướng Hậu Trần bị bắt trong trận. Trong số đó có những tướng lĩnh cao cấp là Dực
vệ Đại tướng quân Trần Lỗi, Long hổ Tướng quân Đặng Nhữ Hý, tướng Lê Mục, tướng
Nguyễn Lâm… Về thiệt hại của quân Minh không có sách sử nào thống kê cụ thể,
nhưng qua diễn biến gay cấn có lẽ cũng không dưới con số hàng ngàn. Một điều
may mắn cho nhà Hậu Trần là phần nhiều quân ta vẫn thoát khỏi trận địa sau cuộc
ác chiến, khiến cho kế hoạch đánh nhanh diệt gọn chủ lực nhà Hậu Trần của
Trương Phụ không thực hiện được.
Trận Mô Độ có thể nói là một trận đánh mà quân Hậu Trần thể hiện cả những
mặt ưu việt nhất cũng như những điểm yếu cố hữu của mình. Có thể thấy rằng,
quân ta có tinh thần và kỷ luật rất cao, kỹ năng chiến đấu rất tốt. Đến cả sử
nước Minh cũng phải công nhận “khí thế giặc rất tinh nhuệ”. Dù vậy, điểm yếu của
quân Hậu Trần là họ không có một nền tảng cơ bản trong hiệp đồng tác chiến, thiếu
các phương án dự phòng nên khi phối hợp với nhau trên chiến trường thì các tướng
hành động không thống nhất. Trong khi người này đang quyết tử chiến, thì người
kia lại muốn rút lui bảo toàn lực lượng. Khi lâm trận, các cánh quân cách nhau
ngoài khoảng nghe thấy tiếng chiêng trống là hầu như mạnh tướng nào nấy đánh.
Sâu xa hơn, quân đội Hậu Trần bấy giờ thiếu một vị tổng chỉ huy có uy
tín vượt trội để điều hành toàn bộ các tướng quân khác. Trong sách sử thường
ghi chép về quân của Trùng Quang khi đánh lớn thường được chỉ huy bởi ba bốn tướng
soái. Nghe qua có vẻ đông đúc, nhưng kỳ thực là thiếu chỉ huy chung nhất. Các
tướng chỉ huy như một hội đồng, có lợi khi thảo luận kế hoạch nhưng thiếu đi sự
linh hoạt trong tác chiến. Điều này khác với thời mà Đặng Tất còn tại thế. Lúc
đó, ông là người có uy tín để chỉ huy toàn bộ quân tướng, giống như Trần Hưng Đạo,
Lý Thường Kiệt thưở trước. Quân Hậu Trần lúc đó muôn người như một, hành động
nhất quán như tay chân trong cơ thể. Đó là điều mà quân Hậu Trần dưới thời vua
Trùng Quang không có được.
Quân Minh sau khi thắng trận, tràn vào Thanh Hóa như thác lũ. Trương Phụ
đi đến đâu là đánh giết tàn bạo. Quân Hậu Trần thì rút về Diễn Châu, Nghệ An sốc
lại lực lượng, quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc dữ.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét