Kỳ 99 -QUÂN MINH SA LẦY, VUA TRẦN SAI 3 ÔNG TƯỚNG RA TRẬN
Kỳ 99
QUÂN MINH SA LẦY
VUA TRẦN SAI 3 ÔNG TƯỚNG RA TRẬN
Nửa cuối năm 1411, Trương Phụ phải bỏ dở giữa chừng chiến dịch đánh diệt
nhà Hậu Trần để đem quân về cứu thành Đông Quan đang bị các toán quân khởi
nghĩa uy hiếp. Điều này đã giúp nhà Hậu Trần được giải vây, nhưng gánh nặng là
dồn sang các lực lượng khởi nghĩa ở phía bắc. Bấy giờ Lê Nhị xưng là Long Hổ tướng
quân Đại đô đốc, lãnh đạo quân dân mở chiến dịch công phá thành Đông Quan. Lê
Nhịvới đạo quân 5.000 người tiến đến ngay sát cạnh Đông Quan thì đã bị một lực
lượng quân Minh áp đảo tuyệt đối dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trương Phụ từ
phía nam trở về tiến đánh dữ dội. Nghĩa quân đã chiến đấu rất anh dũng nhưng
không chống nổi do tương quan quá chênh lệch.
Hơn 1.500 nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận chiến, một số tan rã hàng ngũ.
Lê Nhị trúng tên tử trận. Tướng dưới trướng ông là Phạm Khảng cùng số tàn quân
còn lại kịp rút lui, kéo nhau vào rừng núi lẩn trốn. Đánh tan quân của Lê Nhị rồi,
Trương Phụ sai tướng đánh thốc lên phía bắc thành Đông Quan, hòng tiêu diệt
nghĩa quân Ông Lão. Liệu sức không thể đối đầu ngay với giặc, Ông Lão cho thu
quân rút vào rừng sâu, chia nhỏ lực lượng chực chờ quân Minh rút đi thì lại
đánh phá các đồn trại của bọn ngụy quan. Các hoạt động này khiến quân Minh mất
rất nhiều thời gian đánh dẹp.
Cũng trong năm 1411, hàng loạt cuộc khởi nghĩa khác trên khắp vùng miền
bắc đã khiến quân Minh vô cùng vất vả đối phó. Nhà Hậu Trần cũng hành động để
phối hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân. Đặng Dung, Nguyễn Súy cùng các tướng Hậu
Trần khác là Tôn Nhân, Trần Lỗi đem thủy quân vượt biển ra bắc đánh vào Vân Đồn,
Hải Đông để cướp lương thực, hỗ trợ và cổ vũ nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng
càng nô nức giết giặc.Thành Đông Quan gần như lọt thỏm giữa muôn trùng vây các
cuộc khởi nghĩa. Mặc dù các toán quân khởi nghĩa lần lượt bị đàn áp do rời rạc
thiếu đồng bộ, nhưng cũng đã khiến cho hàng ngàn quân Minh bỏ thây. Và nhất là,
khiến cho mục tiêu sớm bình định Đại Việt của vua Minh thất bại.
Trương Phụ càng đánh nhiều, thắng nhiều thì càng khiến cho sự chống đối
càng thêm dữ dội. Quân Minh không có năng lực để diệt chủng toàn bộ nhân dân Đại
Việt cũng như hoàn toàn tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân, nên phải duy trì lực
lượng ngụy quân, ngụy quan để chia sẻ gánh nặng với quân viễn chinh người Minh
và khiến người Việt bị chia rẽ. Nhưng rồi chính trong lực lượng tay sai đó cũng
xuất hiện những người chống đối, vì rằng nhiều người trong số họ cũng bị lừa dối
và ép buộc. Sách Bình Định Giao Nam Lục của người Minh phải viết: “Vì rằng
trong những quân vệ châu huyện mới đặt, người Giao Châu nhiều, xưa nay vốn ở
ngoài vòng thanh giáo (!?), ưa thích phóng túng, không chịu nổi sự sách nhiễu của
quan lại, tướng sĩ. Họ thường nhớ tục cũ, mỗi khi nghe giặc nổi lên là cùng hưởng
ứng, tướng giặc đến đâu là được chúng cung ứng, giấu giếm. Cho nên giặc tan rồi
lại hợp…”
Đầu năm 1412, tại Thái Nguyên, viên phụ đạo là Nguyễn Nhuế khởi binh
đánh phá quân Minh. Tình hình nghiêm trọng buộc Trương Phụ phải đích thân dẫn
quân đi đánh mới dẹp được. Để có được một vùng Kinh lộ tạm yên ổn làm bàn đạp
tiến về phía nam, Trương Phụ phải mất hơn nửa năm trời. Quãng thời gian này là
ngắn hay dài? Chúng ta cần biết rằng, thời trước quân Tống chỉ bị cầm chân ở
Như Nguyệt 2 tháng trời mà cạn kiệt lương thực, phải rơi vào cảnh khốn đốn.
Quân Nguyên Mông chưa bao ở nước ta được tới nửa năm, lại phải thường xuyên cướp
bóc vơ vét lương thực trong dân mà cũng lâm vào cảnh đói khát. Vậy nên, việc
quân Minh loay hoay phá vòng vây quanh Đông Quan là một sự sa lầy trầm trọng.
Chiến sự liên miên bào mòn quốc lực của nước Minh, và càng khiến quân Minh tăng
cường vơ vét bóc lột nhân dân ta ở vùng chúng chiếm đóng. Chiến tranh là một
cái vòng lẩn quẩn điên rồ, nơi mà những kẻ tham tàn ném quân dân cả hai bên vào
chỗ khổ sở, chết chóc.
Tuy nhiên, dựa vào việc được cung cấp nhân lực, vật lực liên tục từ nước
Minh và việc lập đồn điền cho ngụy quân sản xuất lương thực, quân Minh đã giải
quyết được khó khăn về hậu cần. Trương Phụ sai quân tấn công đội thủy quân của
Nguyễn Súy đang hoạt động ở ven biển vùng Hải Đông (Quảng Ninh, Hải Phòng ngày
nay), giành được thắng lợi. Quân dưới trướng Nguyễn Súy bị hao tổn đến quá nửa,
các tướng phải cho lui quân về Nghệ An. Không có sự hậu thuẫn của quân Hậu Trần,
phong trào khởi nghĩa cũng tạm thời lắng xuống. Đến giữa năm 1412, Trương Phụ
đã bắt đầu mở chiến dịch mới tiến về phía nam, tiếp tục công việc đàn áp nhà Hậu
Trần, chỗ dựa của toàn bộ phong trào kháng Minh thời bấy giờ.
Tháng 7.1412, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem đại binh từ Đông Quan vào
đánh Nghệ An, với mục tiêu là nhanh chóng tiêu diệt nhà Hậu Trần. Quân Minh vấp
phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân Hậu Trần tại vùng Trường Yên (Ninh Bình). Tại
đây, vua Trùng Quang sai ba tướng giỏi nhất của mình là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh
Dị, Nguyễn Súy đón đánh. Về sau, phò mã Hồ Bối cũng được lệnh đem quân tăng cường.
Tuy nhiên, lực lượng quân Hậu Trần vẫn ít hơn quân Minh rất nhiều. Chẳng những
vậy, cả quân lẫn tướng giặc đều tinh nhuệ, nhiều tên dày dặn kinh nghiệm. Quân
ta dùng kế chia quân đánh tỉa, cốt làm chậm nhịp tiến quân của giặc. Trương Phụ
phải mất nhiều thời gian ở Trường Yên. Dù vậy, là một tướng lão luyện, Phụ vẫn
giữ được phần đông lực lượng trước sự đánh phá của quân Hậu Trần, lầm lũi từng
bước một tiến dần về phương nam.
Đầu tháng 9.1412, quân Minh và quân Hậu Trần đánh nhau một trận lớn.
Nguyễn Súy, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cùng nhau chia quân bày trận ở Mô Độ -
huyện Yên Mô. Quân Hậu Trần tập trung lực lượng chặn cửa biển Thần Phù, nơi
sông Đáy đổ ra biển. Thủy quân ta có khoảng 400 chiến thuyền, bộ binh có vài
ngàn quân mai phục trên bờ chờ đánh bộ binh của giặc. Cửa biển Thần Phù là vị
trí mà quân Minh phải đi qua để vượt biển tiến đánh Nghệ An, nơi mà Trùng Quang
đế đóng đại doanh.
Do vị trí chiến lược quan trọng mà binh thuyền do ba tướng Đặng Dung,
Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy nắm giữ cũng là lực lượng mạnh nhất mà Trùng Quang đế
có thể điều động được vào lúc đó. Dẫu rằng lực lượng này vẫn thua kém quân của
Trương Phụ, Mộc Thạnh, nhưng nhà Hậu Trần cố gắng trông cậy vào địa lợi. Nơi mà
quân ta lựa chọn để đặt trận địa đón đánh giặc là nơi đường hẹp lầy lội, nhằm hạn
chế tối đa sức mạnh kỵ binh của giặc.Ngày 6.9.1412, Trương Phụ đem binh thuyền
tiến đển cửa biển, cùng quân Hậu Trần giao chiến một trận đẫm máu.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét