“CHỞ” TRONG “CHE CHỞ”
“CHỞ” TRONG “CHE CHỞ”
Trong bài “Nên xem ‘che chở’ là từ láy
hay từ ghép” (nguvanthcs.wordpreess.com), ThS. Lê Bá Miên, Khoa Ngữ văn -
ĐHSP 2 - Xuân Hòa - Mê Linh - Vĩnh Phúc cho rằng: “chở” chẳng qua chỉ
là sự biến dạng của “che”. Tác giả cho biết:
“Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số
9 (123) tháng 9/2006 có bài trả lời của nhà giáo Đình Cao cho câu hỏi của em Vũ
Ánh Dương về việc xác định kiểu cấu tạo của từ che chở. Sau khi phân
tích, câu trả lời đi đến khẳng định: “Vậy có thể kết luận che chở là
từ ghép đẳng lập, như đáp án A mà Phòng Giáo dục chọn, chứ không phải từ láy bộ
phận như đáp án D mà bạn Ánh Dương chọn. Tuy nhiên, ta cũng không thể bác bỏ ý
kiến thứ ba rằng che chở là hình thức trung gian giữa tự ghép đẳng lập
và từ láy đôi…”.
ThS. Lê Bá Miên cho rằng cách giải
thích của Nhà giáo Đình Cao không đúng: “Xét về ý nghĩa của các tiếng,
“che” có nghĩa “làm cho người ta không còn nhìn thấy được bằng cách dùng một vật
ngăn hoặc phủ lên” (Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, 2000) còn
“chở” không có nghĩa. Vì theo cơ chế láy, “chở” chẳng qua chỉ là sự biến dạng của
“che” do tác động của phương thức láy như đã nói ở trên. Còn như cho rằng “chở”
cũng có nghĩa thì đó là nghĩa gì, chứ nghĩa ấy không giống với “chở” trong từ chuyên
chở”.
Quả thật, không riêng ThS. Lê Bá
Miên. “Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ
biên) đã thu thập và giải thích: “CHE CHỞ đgt. Che chở để bảo vệ chống lại
sự xâm phạm từ phía khác tới. “Chỉ hiềm có lớp mái hiên quá hẹp, nó không đủ sức
che chở mưa nắng, cho khỏi làm lạt màu vàng son.” (Ngô Tất Tố).
Tuy nhiên, chúng tôi lại cho rằng Nhà
giáo Đình Cao đã đúng. “Che chở” là từ ghép đẳng lập: “che” nghĩa là che
chắn, làm cho không bị xâm hại; làm cho lấp đi… (như che mưa; che nắng;
che đậy; “Gió chiều nào che chiều ấy”; Màn thưa che mắt thánh…); “chở” nghĩa
là chuyên chở; vận tải, chở đi bằng phương tiện xe cộ, thuyền bè…,
nghĩa bóng là nâng đỡ, giúp sức, ví như thành ngữ “Trời che đất
chở”.
Nguyên trong “Lễ Ký - Trung Dung” có câu
“Thiên chi sở phú, địa chi sở tái - 天之所覆, 地之所載”. Về sau, câu này được sử dụng như một thành ngữ dân
gian và diễn đạt ngắn gọn thành “Thiên phú địa tái - 天覆地載” (Trời che đất chở).
“Thiên phú địa tái” 天覆地載 được Hán điển giảng hai nghĩa: “① trời cao che vạn
vật; đất rộng chở muôn loài. Chỉ trời đất rộng lớn, không gì
không che chở; ② ví
với ân trạch rộng lớn, ca tụng đức chính của đế vương.” [天覆地載: 1.上天覆蓋著萬物,大地承載著一切. 指天地廣大, 無所不包; 2. 比喻恩澤廣布,用來頌揚帝王德政 - Thiên phú địa tái: ① thượng thiên phú
cái trước vạn vật, đại địa thừa tái trứ nhất thiết. Chỉ thiên địa quảng đại, vô
sở bất bao. ② tỉ
dụ ân trạch quảng bố, dụng lai tụng dương đế vương đức chính]”. Hán ngữ đại
từ điển có cách giảng tương tự.
Bài “Trường ca hành” 長歌行 của Lý Bí 李 泌 (722-789) đời Đường có câu: “Thiên phú ngô, địa tái
ngô/Thiên địa sinh ngô hữu ý vô” 天覆吾, 地載吾/天地生吾有意無 (Trời che ta, đất chở
ta/Trời đất sinh ta hữu ý chăng?). Sau này, bài “Nợ công danh” của Nguyễn Công
Trứ (1778-1858) cũng có câu: Thiên phú ngô, địa tái ngô/Thiên địa sinh ngô
nguyên hữu ý - 天覆吳地載吳/天地生吳原有意 (Trời che ta, đất
chở ta/Trời đất sinh ta nguyên hữu ý).
Mục “chở”, Đại Nam quấc âm tự vị chỉ
giảng nghĩa đen: “chất để lên, vận đem đi (thường hiểu về ghe, xe)”, nhưng
có ghi nhận:“chở che hoặc che chở: phò trì ủng hộ”; mục “che” giảng:
“bao phủ làm cho khuất”, và ghi nhận “che chở: binh vực, ủng hộ; Trời che
đất chở: Công ơn Đứng tạo hoá”. Trong Truyện Kiều có câu “Chở che đùm
bọc thiếu chi, Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!”.
Các cuốn từ điển tiếng Việt chúng tôi có
trong tay, duy chỉ “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS. Nguyễn Lân) thu thập nghĩa
bóng của “chở” như sau: “chở • đgt. ủng hộ; Bênh vực (ít dùng)
<> Trời che, đất chở (tng)”. Soạn giả cũng dành riêng một
mục cho “Trời che đất chở”, và giải thích: “trời che đất chở • ng. ý nói:
Việc mình làm tốt thì chẳng sợ thất vọng đâu <> Anh cứ thẳng thắn
làm việc, trời che đất chở có ngại gì”. Tiếc rằng, cách giải thích này
không chính xác.
“Che chở” đồng nghĩa với chở che; cùng
cấu trúc đẳng lập và gần nghĩa với “che chắn” (chắn = ngăn lại, không cho xâm lấn,
như “Chắn trước rào sau”; Che chắn, giấu giếm khuyết điểm cho nhau).
Như vậy, “che chở” là từ ghép đẳng lập,
trong đó cả hai thành tố “che” và “chở” đều có nghĩa từ vựng rõ ràng, có thể đứng
độc lập và hoàn toàn đảm bảo nguyên tắc đồng đại.
HOÀNG
TUẤN CÔNG
Bài "Trường ca hành" của Lý Bí-Ảnh: ST
Nhận xét
Đăng nhận xét