Kỳ 82 -HỔ NGUYÊN TRỪNG ĐẠI CHIẾN QUÂN MINH Ở HÀM TỬ QUAN
Kỳ 82
HỔ NGUYÊN TRỪNG ĐẠI CHIẾN QUÂN MINH
Ở HÀM TỬ QUAN
Thành quả phát triển qua hàng trăm năm đã cho phép dân tộc Việt đầu thế
kỷ 15 có được tiềm lực dồi dào hơn trong chiến tranh. Điều đó có nghĩa là quân
đội Đại Ngu có thể chịu đựng những thiệt hại lớn hơn các đội quân người Việt
trong quá khứ mà vẫn có được lực lượng đủ để chiến đấu và giành chiến thắng với
giặc. Khi quân Minh gặp bất lợi phải lui về giữ Hàm Tử quan, Hồ Nguyên Trừng
nhân đà thuận lợi tiến quân chiếm đóng trở lại căn cứ Hoàng Giang. Hai đội quân
giữ thế gườm nhau, chuẩn bị cho một trận quyết chiến tiếp theo.
Tại Hàm Tử, quân Minh vẫn còn lực lượng rất mạnh với mười mấy vạn quân
và nhiều chiến thuyền. Trong số các thuyền chiến có nhiều chiếc là chiến lợi phẩm
thu được của quân Đại Ngu qua các trận chiến trước. Quân Minh còn bắt trai
tráng nước ta bổ sung vào lực lượng đã bị thiệt hại. Ngụy binh trong hàng ngũ
giặc không có lòng chiến đấu, chỉ chực chờ rút chạy hoặc đào ngũ. Tuy nhiên, tướng
lĩnh nước Minh rất thạo việc cưỡng bức quân lính chiến đấu, ngụy binh do đó mà
không có nhiều cơ hội thoát khỏi sự kìm kẹp của giặc, phải cầm vũ khí chống lại
chính đất nước của mình.
Về phần quân Đại Ngu ở Hoàng Giang, quân số của ta ít hơn giặc rất nhiều.
Hồ Nguyên Trừng hội quân các nơi về, tất cả được 7 vạn quân, nói phao lên là 21
vạn. Bù lại, quân ta có rất nhiều thuyền bè, khí giới. Hàng trăm chiến thuyền
hai tầng bong có vỏ ngoài đóngđinh sắt to lớn “Tải lương cổ lâu”, cùng với thuyền
đóng đinh sắt “Tải lương trung tàu” tập trung ở căn cứ Hoàng Giang. Binh lực của
nhà Hồ thực sự vẫn đủ sức chống cự với giặc nếu như các tướng lĩnh biết cách
dùng quân đúng đắn, quân lính dũng cảm diệt giặc.
Tháng 4.1407, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng quyết định chủ động mở cuộc
phản công lớn để giành chiến thắng. Các đại tướng nhà Hồ chia quân từ Hoàng
Giang đến đánh Hàm Tử. Hồ Xạ, Trần Đĩnh cầm quân bộ men theo bờ nam sông tiến
lên. Bên bờ bắc, quân bộ do hai tướng Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang chỉ huy. Thủy
quân tiên phong gồm 100 chiến thuyền đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Công Chửng.
Hồ Nguyên Trừng, Hồ Đỗ cùng với các tướng Đỗ Mãn, Hồ Vấn chỉ huy trung quân là
các chiến thuyền chủ lực theo sau đạo thủy quân tiên phong. Quân Đại Ngu tiến rầm
rộ, thuyền chiến chắn ngang dày kín cả con sông, kéo dài hơn 10 dặm, khí thế rất
hùng hổ.
Quân Minh ở cửa Hàm Tử do thám biết được quân Đại Ngu tấn công, chúng
bèn chia quân làm hai đạo thủy bộ mai phục chờ sẵn. Quân Đại Ngu tuy mạnh về vũ
khí nhưng kỷ luật kém, hành quân được một quãng thì đâm ra trễ nải. Quân Minh
thừa cơ hội, phục binh từ hai bên bờ sông nhất tề xông ra tấn công. Quân bộ Đại
Ngu ở bờ bắc đụng trận với giặc trước, quân lính không chống nổi, hàng ngũ rối
loạn, bị địch lùa xuống sông chết rất nhiều. Thủy quân ở dưới sông cố sức cầm cự
với quân Minh, hai bên kịch chiến đẫm máu. Hồ Xạ chỉ huy quân bộ ở bờ nam tiến
quân chậm ở phía sau, hay tin quân ta trúng mai phục, dùng dằn chưa dám tiến
quân. Hồ Đỗ sai người trách bảo: “tướng quân sao không đánh giặc”. Hồ Xạ
lúc ấy mới thúc quân tiến lên. Nhưng khi Hồ Xạ chưa kịp đến thì thế trận đã định.
Thủy quân Đại Ngu sau một hồi giao chiến cũng không cầm cự nổi, nối
nhau tan vỡ. Các chiến thuyền Tải Lương đều bị đánh chìm, mang theo những đơn vị
thủy quân tinh nhuệ của nhà Hồ bỏ mình nơi đáy nước. Chỉ có lực lượng thủy quân
theo sau là chạy thoát được cùng với các chủ tướng. Quân của Hồ Xạ đến nơi muộn
màng cũng nhanh chóng bị đánh thua, An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hi Chu bị giặc
bắt sống. Bị giải đến doanh của Trương Phụ, Hi Chu không ngớt lời chửi mắng. Phụ
tức giận, sai đem giết.
Chủ trương chủ động tấn công địch của Hồ Nguyên Trừng không tệ, nhưng
trận Hàm Tử thất bại là do những sai lầm cơ bản. Quân nhà Hồ đã để lộ quân cơ
quá sớm, khiến cho giặc có thời gian bố trí trận địa mai phục chờ sẵn. Khi hành
quân, tướng giỏi sẽ biết dùng du binh đi trước do thám bốn mặt rồi đại quân mới
theo sau. Hồ Nguyên Trừng hành quân rầm rộ nhưng thiếu tin tức của du binh, để
toàn quân bị tấn công bất ngờ, đó là do thiếu cẩn trọng. Quân Đại Ngu gặp mai
phục thì hoảng loạn nhanh, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép
tình cảnh thời bấy giờ “Quân bộ của nhà Hồ không thể đối địch được, cùng
nhau trốn chạy, gặp phục binh nhà Minh, đều quay giáo, nhảy xuống sông chết”. Điều
này một lần nữa cho thấy kỷ luật kém, tinh thần chiến đấu kém của quan quân nhà
Hồ.
Việc Hồ Xạ hiệp đồng tác chiến chậm càng làm quân Đại Ngu gặp bất lợi,
chứng tỏ rằng các tướng lĩnh nhà Hồ không có một đường lối chung trong phương
thức tác chiến nên khi gặp các tình huống bất ngờ ngoài chiến trường thì không
biết ứng biến như thế nào cho đúng. Những sự yếu kém này lỗi lầm sâu xa là do
đường lối quân sự sai lầm của Thượng hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương. Họ
chú trọng vũ khí, quân số mà rèn quân luyện tướng kém, các tướng soái được giao
trọng trách chỉ là những người có năng lực trung bình hoặc kém, hoàn toàn không
phải đối thủ của những tướng xảo quyệt của giặc Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh …
Trận Hàm Tử đã đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh. Quân Đại
Ngu sau trận này đã mất đi những thành phần dự bị chiến lược quan trọng nhất, hầu
như không còn đủ sức gượng dậy nổi. Quân Minh một mặt ra sức truy kích họ Hồ mặt
khác tiến hành các bước chuẩn bị sát nhập nước ta thành quận huyện của nước
Minh. Trương Phụ cùng bọn Việt gian đã phối hợp cùng nhau dựng lên một màn kịch
để hợp thức hóa việc xóa sổ nước ta. Giặc Minh vờ truyền lệnh tìm con cháu họ
Trần để lập làm vua. Bọn Mạc Thúy cùng đám bán nước tiếm xưng là “kỳ lão nước
An Nam” dâng sớ tâu: “Họ Trần không còn người nào có thể thừa kế được. An
Nam nguyên trước là Giao Châu, xin khôi phục lại chế độ quận huyện, cho dân được
đổi mới” !!! Trương Phụ mới nhân đó tâu về với vua Minh, chuẩn bị hoàn tất
kế hoạch cướp nước của chúng.
Quan quân nhà Hồ sau khi thua trận tan tác, chia làm nhiều hướng mà rút
chạy, nhiều nhánh quân hoàn toàn tan rã. Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương theo đường
sông Đáy vượt biển rút về Thanh Hóa. Giặc Minh thúc quân đuổi gấp đêm ngày,
tình cảnh vô cùng khốn đốn.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét