Kỳ 81 -CÁI GIÁ ĐẮT CHO NHỮNG NGƯỜI NGÂY THƠ TIN LỜI DỤ DỖ CỦA NHÀ MINH
Kỳ 81
CÁI GIÁ ĐẮT CHO NHỮNG NGƯỜI NGÂY THƠ
TIN LỜI DỤ DỖ CỦA NHÀ
MINH
Sau trận đại chiến tại thành Đa Bang, quân tướng nhà Hồ bị tổn thất nặng
nề nhưng vẫn còn một lực lượng đáng kể kịp rút lui. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng
đem binh thuyền xuôi dòng sông Hồng về căn cứ Hoàng Giang (sông Châu thuộc Lý
Nhân, Hà Nam) tập họp lại lực lượng. Quân Đại Ngu đóng dọc sông gần Bạch Hạc
cũng đều rút cả. Một số đạo quân tan rã dọc đường, số khác cố gắng tìm về với
chủ soái Hồ Nguyên Trừng. Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương đã rút lui
về kinh thành Tây Đô. Các tướng Hồ Đỗ, Hồ Xạ cũng từ bắc đem thủy quân về giữ bến
Bình Than (Chí Linh, Hải Dương) nghe ngóng tình hình.
Quân Minh sau khi chiếm được Đa Bang thì tràn vào Đông Đô cướp phá. Dân
chúng vùng trung châu (trung tâm đồng bằng sông Hồng) trước đó vì có ý bất mãn
với triều đình, lại bị các luận điệu lừa dối của giặc lung lạc nên đã không sơ
tán theo kế sách “vườn không nhà trống”. Quân Minh do đó mà có được cơ hội nắm
được dân, cướp được nguồn lương thực tại chỗ trong dân làm quân lương. Giặc lại
tính kế lâu dài, bắt đầu chính sách chiêu an. Trong khi tầng lớp bình dân là những
nạn nhân phổ biến của quân giặc, bị cướp giết, bị bắt làm nô lệ hoặc phải làm
ngụy binh cho giặc thì trái lại giới trí thức, quan lại, đầu mục các xứ là đối
tượng mà quân Minh ra sức dụ dỗ bằng chức tước, tiền bạc và những lời hứa hẹn
“phù Trần diệt Hồ”. Thái độ của các tầng lớp nhân dân vì vậy mà cũng có phần
khác nhau. Một số tướng lĩnh, quan lại cao cấp nhà Hồ lũ lượt theo hàng quân Minh
như trung thư lệnh Trần Sư Hiền, công chúa Thiên Gia, Thị trung Trần Nguyên Chỉ…
Mặc khác, giới bình dân lại hết sức căm phẫn trước sự tàn bạo, tráo trở của
quân Minh, ngày ngày chực chờ tìm minh chủ để nổi lên đánh đuổi quân xâm lược.
Đồng thời với việc cố gắng củng cố vùng chiếm đóng, giặc nhanh chóng tổ
chức lực lượng truy lùng đại quân của nhà Hồ. Tháng 3.1407, Mộc Thạnh dò biết
được Hồ Nguyên Trừng đóng ở sông Hoàng Giang, bèn tự mình cầm quân thủy bộ đến
đánh. Đến sông Mộc Hoàn (sông Hồng chảy qua Hà Nam), quân Minh không tiến được
vì trước mặt là trận địa vững chắc của quân Đại Ngu. Thạnh tự thấy chưa thể tấn
công ngay được, cho đóng trại đối ngạn với quân ta. Hồ Nguyên Trừng thừa thế
đem 300 chiến thuyền tiến đánh trại của quân Minh, bị trúng kế của giặc. Mộc Thạnh
đã cho quân bố trí sẵn ở hai bên bờ sông. Thuyền quân Đại Ngu đến đánh, bị thuyền
quân Minh chắn ngang sông, bộ binh giặc hai bên bờ đánh khép lại. Hồ Nguyên Trừng
thua to, phải cho quân bỏ căn cứ Hoàng Giang, cho quân dong thuyền về giữ cửa
Muội Hải (thuộc Giao Thủy, Nam Định. Cửa biển xưa, nay đã vùi lấp).Thượng hoàng
Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương sau khi quân Đại Ngu để mất căn cứ Hoàng Giang thì
dẫn một bộ phận rút về kinh thành Tây Đô (Thanh Hóa) chuẩn bị các phương án
phòng thủ.Các tướng Hồ Đỗ, Hồ Xạ lúc này cũng phải bỏ căn cứ Bình Than, theo
dòng sông Thái Bình vượt biển vào Muội Hải hội quân.
Mộc Thạnh tuy thắng trận ở Hoàng Giang nhưng quân bộ, quân thủy không đồng
nhất nên tiến quân chậm. Hồ Nguyên Trừng dùng thuyền chở quân nên đi nhanh. Khi
quân Minh đuổi đến gần Muội Hải thì quân Đại Ngu đã tập họp lại ổn định rồi, mà
phía Mộc Thạnh thì tổn thất trong trận trước cũng không nhỏ, lại mệt mỏi vì đoạn
đường dài. Giặc buộc lòng phải tiến hành hội quân mới đủ lực lượng tiếp tục đà
tấn công. Trương Phụ cùng Mộc Thạnh sau đó tiến hành tập kết lực lượng. Tranh
thủ thời gian, quân Đại Ngu ở Muội Hải gấp rút đắp thêm chiến lũy, trưng tập
lương thực, thuyền bè, đúc thêm súng ống. Quân đội triều đình kêu gọi nhân dân
đóng góp tiền của chống giặc, ai đóng góp nhiều thì được lấy con gái tôn thất
và được cấp 10 mẫu ruộng. Bằng những biện pháp chỉnh đốn lực lượng mới này, thế
quân ta lại dần mạnh lên.
Khi Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đến đánh Muội Hải thì gặp lúc nước
triều lên cao. Tướng Đại Ngu là Ngô Thành Nhân nhân thế nước, thế gió mà chỉ
huy quân Thần Đinh đột kích quân Minh. Ngô Thành Nhân gây cho quân giặc một số
thiệt hại, đánh đuổi giặc đến Giao Thủy, vì quân ít nên bị đánh quật lại.
Trương Phụ, Mộc Thạnh chia quân ra hai bên bờ sông tạo thế gọng kìm vây thuyền
quân ta ở giữ sông. Ngô Thành Nhân thế cô, bị hãm trong trận mà chết, được vua
Hồ Hán Thương truy phong Kiêu vệ tướng quân.
Trong lúc Trương Phụ rầm rộ tiến quân thì phía ta lại có kẻ gian hàng
giặc. Người ở phủ Kiến Hưng là Trần Nhật Kiêm tụ tập bè đảng giết chết quan Trấn
thủ là Phan Hòa Phủ, đem thuộc hạ đi hàng Trương Phụ. Sau Nhật Kiêm ở trong
quân kiêu căng, phạm phải quân pháp, bị Trương Phụ đem giết đi.
Quân Minh tiến đánh Muội Hải ngày này qua ngày khác không hạ nổi. Hồ
Nguyên Trừng đã lợi dụng địa hình vùng ven biển có nền đất bùn lầy ẩm ướt mà hạn
chế sức mạnh kỵ binh, bộ binh của giặc. Thủy quân nhà Hồ có các thuyền chiến lớn,
phát huy triệt để sức mạnh trên chiến trường vùng ven biển, gây cho địch nhiều
thương vong. Quân Đại Ngu lại biết dựa vào chiến lũy mà chống trả rất kiên cường.
Trương Phụ, Mộc Thạnh đóng quân ở Muội Hải, quần nhau với quân ta hơn nửa
tháng, bị nắng mưa, dịch bệnh hoành hành, quân lính chết dần chết mòn. Chúng buộc
phải rút lui về cửa Hàm Tử đóng quân. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, quân Đại
Ngu đẩy lui được giặc trong một chiến dịch phòng thủ. Có thể xem đây là một thắng
lợi cục bộ trong cuộc chiến, nhưng việc quân giặc tạm lùi cũng là có dụng ý.
Trương Phụ biết rằng quân Minh không thể chiến thắng được ở chiến trường ven biển
nên có ý dẫn dụ quân nhà Hồ vào sâu trong nội địa để giao chiến lớn.
Về phía nhà Hồ, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng cũng không phải không biết
mưu kế của giặc nhưng vẫn chấp nhận mạo hiểm mà tiến lên, giành lại quyền kiểm
soát vùng đồng bằng trung châu. Việc này có ý nghĩa lớn trong một cuộc chiến
trường kỳ. Nếu để quân Minh kiểm soát được Đông Đô và phụ cận lâu dài, giặc có
thể huy động nhân lực, vật lực ở đó mà gây áp lực lên vùng phía nam với trung
tâm là kinh thành Tây Đô. Hồ Nguyên Trừng từ Muội Hải đem quân ngược sông Hồng
về chiếm lại căn cứ Hoàng Giang, rước Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương
từ Thanh Hóa ra để cùng coi quân. Quân nhà Hồ tích cực chuẩn bị lực lượng để
đánh một trận lớn quyết định với quân Minh. Các tướng lĩnh chủ chốt của quân Đại
Ngu đem quân đến hội, tổng cộng được 7 vạn quân, nói phao lên là 21 vạn. Thuyền
bè, khí giới của quân ta vẫn hùng mạnh, nhất là thủy quân có nhiều thuyền chiến
lớn và thuyền tải lương. Bấy giờ người dân ở vùng Kinh lộ bị quân Minh bắt quân
dịch, làm nô lệ, nhiều gia đình vì thế mà tan tác cả. Dân chúng đã chán ngán sự
tham tàn của quân Minh, nhiều người trai tráng rủ nhau vào nam xin theo quân
đánh giặc. Trong đó có cả những người đã bị quân Minh bắt làm ngụy binh cũng trốn
về với quân triều đình, nguyện ra sức lập công.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét