CHIẾN TRANH VIỆT NAM – CAMPUCHIA:
7-GIAI ĐOẠN BÌNH ĐỊNH LÃNH THỔ [1980 – 1989]
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Thái Lan hỗ trợ Khmer Đỏ
Việt Nam hy vọng có thể nhanh chóng truy quét và tiêu diệt tàn quân Khmer
Đỏ trước khi mùa khô 1979-1980 kết thúc, nhưng tàn quân Khmer Đỏ đã phân tán rải
rác trong các trại tị nạn dọc biên giới Thái Lan-Campuchia.
Tổ chức cứu trợ khẩn cấp Campuchia của Mỹ, dựa vào đại sứ quán Mỹ tại
Bangkok, đã nuôi dưỡng và hỗ trợ Khmer Đỏ để tiếp tục chống lại chính phủ mới của
Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn. Dưới sức ép của Mỹ, Chương trình Lương thực thế
giới đã cung cấp lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer Đỏ. Suốt một thập
kỷ sau đó, cơ quan tình báo quân đội Mỹ đã giúp Khmer Đỏ do thám qua vệ tinh, đồng
thời các lực lượng đặc nhiệm của Mỹ và Anh hướng dẫn quân Khmer Đỏ đặt hàng triệu
quả mìn bộ binh khắp miền Tây Campuchia.
Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng dùng quyền của mình ở Liên Hợp Quốc để giữ ghế
đại diện cho Khmer Đỏ. Chính quyền Pol Pot dù chỉ còn là một nhóm du kích trong
rừng nhưng lại được coi là đại diện hợp pháp duy nhất của Campuchia.
Trung Quốc tích cực hỗ trợ Khmer Đỏ với ngân khoản 80 triệu đôla hàng
năm, và vận động Hoa Kỳ viện trợ cho các phe đối lập.[66] Hoa Kỳ tiếp tục tiến
hành cấm vận kinh tế với Việt Nam, và từ khi quân Việt Nam tiến vào Phnôm Pênh,
hủy bỏ đàm phán bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Hoa Kỳ và đồng minh gây
áp lực để cả Ngân hàng Phát triển châu Á và Ngân hàng Thế giới ngưng các khoản
vay cho Việt Nam và Campuchia.
Thái Lan đồng ý cho lực lượng Khmer Đỏ thiết lập căn cứ tại vùng biên giới.
Để hỗ trợ Khmer Đỏ, liên minh không chính thức giữa Trung Quốc và Thái Lan đã
thiết lập một tuyến đường bí mật trên đất Thái tiếp tế cho Khmer Đỏ. Tàu Trung
Quốc chở vũ khí đạn dược đến các cảng Sattahip và Klong Yai, từ đó, quân đội
Thái Lan chuyển hàng đến cho các trại đóng quân của Khmer Đỏ dọc theo biên giới
Thái Lan - Campuchia. Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok phối hợp với các thương
gia người Thái gốc Hoa cùng quân đội Thái chịu trách nhiệm cung cấp lương thực,
thuốc men và hàng dân dụng cho Khmer Đỏ. Đổi lại, Trung Quốc trả phí vận chuyển
cho quân đội Thái và cho phép quân đội Thái giữ lại một phần vũ khí. Trung Quốc
cũng chuyển giao cho Thái Lan công nghệ chế tạo vũ khí chống tăng với điều kiện
một phần sản lượng sẽ được chuyển cho Khmer Đỏ.
Ngoài hỗ trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer Đỏ, Trung Quốc cũng cung
cấp viện trợ cho các phe phái đối lập khác ở Campuchia như KPNLF. Nhờ đó, lực
lượng quân sự của các phái này có lúc đã phát triển lên gần 30 ngàn. Lực lượng
Việt Nam vừa phải chống lại Khmer Đỏ vừa phải chống lại quân đội của các phe
phái đối lập này.
Nhờ có sự giúp đỡ về vũ khí, lương thực của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các căn
cứ do Thái Lan cung cấp, từ tình trạng chỉ còn là những nhóm du kích hồi cuối
năm 1979, đến cuối năm 1980 lực lượng Khmer Đỏ đã hồi phục sức mạnh, với quân số
tăng lên khoảng 20.000 tới 40.000. Đến cuối năm 1981, chiến tranh du kích của
Khmer Đỏ thực hiện tại Campuchia đã lan rộng mạnh mẽ tại những khu vực rộng lớn.
Việt Nam hỗ trợ chính quyền mới và truy quét quân Khmer Đỏ
Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng
nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập.
Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia về danh nghĩa là đảng cầm quyền tại
Campuchia. Nhưng tổ chức này mới được thành lập nên chưa đủ sức bảo vệ chính phủ
mới khỏi trước sức mạnh quân sự của Khmer Đỏ.
Chính hành động này đã làm cho Việt Nam bị cấm vận thông qua trong cuộc bỏ
phiếu tại Liên Hợp Quốc vào năm 1985: Lào, Syria, Ba Lan, Mông Cổ, Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, Liên Xô, Samoa, Nicaragua, Cuba, Tiệp Khắc,
Yemen, Iraq, Bulgaria, Ethiopia, Byelorussia và một số nước khác bỏ phiếu phản
đối cấm vận Việt Nam. Tổng cộng 124 phiếu thuận, 17 phiếu chống. Việt Nam lâm
vào tình cảnh bị cấm vận, thiếu thốn.
Hàng ngàn công chức và kỹ thuật viên Việt Nam đã được đưa sang Campuchia
để khôi phục hệ thống điện, nước ở Phnôm Pênh, đưa hệ thống đường sắt vào hoạt
động trở lại. Các bệnh viện và trạm xá được mở lại với các bác sĩ dân y và quân
y Việt Nam cùng một số bác sĩ Campuchia còn sống sót qua thời Khmer Đỏ. Hàng
trăm người Campuchia được gửi sang Việt Nam học các khóa cấp tốc về chăm sóc sức
khỏe, giáo dục, ngân hàng, ngoại thương và an ninh.
Từ tháng 4/1979, lực lượng Việt Nam chỉ còn quân khu 5, quân khu 7, quân
đoàn 4, quân khu 9 ở lại Campuchia, đóng thành bốn mặt trận 579, 779, 479 và
979. Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến dịch
quân sự truy quét các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1 năm 1980, chiến dịch quân sự
nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Các cuộc đụng độ giữa các lực lượng
NCR và quân Việt Nam cũng diễn ra và lan sang cả lãnh thổ Thái Lan. Thời gian
này, Khmer Đỏ bắt đầu tái xâm nhập Campuchia từ Thái Lan với khoảng 3-4 ngàn
quân. Khi mùa mưa tới, Khmer Đỏ đã tái tổ chức lực lượng, chỉ huy và huấn luyện,
bắt đầu các cuộc giao tranh quy mô nhỏ như đánh du kích, phục kích, pháo kích
quấy rối.
Lực lượng Việt Nam và chính phủ Phnom Phênh tiếp tục truy đuổi và giáng
những đòn nặng nề vào các nhóm chống đối. Năm 1982, trong một chiến dịch dữ dội
nhất kể từ khi quân Việt Nam tiến vào lật đổ Khmer Đỏ, sư đoàn 7 Việt Nam đánh
vào trại Sokh San của KPNLF, buộc họ phải bỏ chạy vào Thái Lan. Tới tháng 7 năm
1982, Việt Nam tuyên bố sẽ rút quân từng phần khỏi Campuchia đơn phương và vô
điều kiện. Ngay lập tức, các lực lượng đối lập tăng cường các hoạt động quân sự.
Quân Khmer Đỏ tăng cường hoạt động vũ trang tại các tỉnh Kampot, Takeo, Kampong
Cham và Kampong Thom Sự yếu ớt của quân đội chính phủ Phom Penh khiến họ không
thể chống đỡ được sự trỗi dậy của Khmer Đỏ. Tình hình quân sự tại Campuchia
trong năm 1983 trở nên xấu đi, buộc Việt Nam phải ngừng việc rút quân khỏi
Campuchia.
Tương quan lực lượng năm 1984 là Việt Nam có khoảng 180 ngàn quân tại
Campuchia, so với khoảng 17 ngàn quân của KPNLF, và khoảng 30-50 ngàn quân
Khmer Đỏ và khoảng 5 ngàn quân thuộc lực lượng Sihanouk.
Tới mùa khô năm 1984 - 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân cho
chiến dịch tấn công quyết định nhằm triệt hạ các căn cứ của Khmer Đỏ nằm gần
Thái Lan, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường và mở rộng các
sân bay dã chiến tại khu vực biên giới. Cuối tháng 12 năm 1984, khoảng 1.000
quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet. Tháng 1 năm 1985, khoảng 4.000 quân Việt
Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của lực lượng
Mặt trận Nhân dân Giải phóng Quốc gia Campuchia (KPNLF) với 5.000 quân phòng ngự
và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ. Quân Việt Nam và quân chính phủ Cộng
hòa Nhân dân Campuchia cũng mở chiến dịch tấn công căn cứ lớn có gần 10.000
quân Khmer Đỏ đóng giữ tại Phnom Malai, nơi mà họ từng định đánh chiếm năm 1982
nhưng bất thành, và đã triệt hạ căn cứ này sau 2 ngày giao tranh. Chiến dịch
mùa khô năm 1984-85 là chiến dịch lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về quy
mô, thời gian và mức độ thành công.
Sau các chiến dịch 1984-85 của Việt Nam, lực lượng đối lập bị nhiều tổn
thất. Liên quân KPNLF và Khmer Đỏ ước tính đã bị mất khoảng 1/3 lực lượng do
thương vong và đào ngũ. Liên minh này mất toàn bộ các căn cứ trên đất
Campuchia, trong đó có thủ đô lâm thời đặt tại một ngôi làng có tên Phum Thmei
trong rừng sát biên giới Thái Lan. Khmer Đỏ rút một phần về Thái Lan, một phần
chia nhỏ và ẩn trong nội địa. Hai phe Sihanouk và Son Sann rút hẳn vào trong
lãnh thổ Thái Lan. Chiến dịch truy quét quy mô lớn kéo dài 5 tháng của Việt Nam
đã chấm dứt hy vọng lật ngược tình thế của Khmer Đỏ và KPNLF. Kể từ cuối năm
1985, các lực lượng này về cơ bản không thể là mối đe dọa lớn đối với chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Campuchia được nữa.
Ngày 16 tháng 8 năm 1985, thông cáo của cuộc họp các bộ trưởng ngoại giao
ba nước Đông Dương tại Phnôm Pênh tuyên bố Việt Nam sẽ rút quân hoàn toàn khỏi
Campuchia, quá trình rút quân hoàn thành năm 1990.
Tháng 6 năm 1988, trên cơ sở trưởng thành của quân đội Campuchia và với sự
thỏa thuận của giữa Việt Nam và Campuchia, Việt Nam đã rút toàn bộ chuyên gia
dân sự và đến ngày 26 tháng 9 năm 1989, Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện
và chuyên gia quân sự Việt Nam về nước. Sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút hết,
lúc đầu phía Campuchia có lúng túng trước các hoạt động giành dân, chiếm đất của
Khmer Đỏ và đồng minh nhưng dần dần Campuchia vươn lên làm chủ tình hình, kiểm
soát trên 90% lãnh thổ.
Năm 1992-1993, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc Campuchia (UNTAC
- United Nations Transitional Authority in Cambodia) tạm thời quản lý
Campuchia.
Nhận xét
Đăng nhận xét