Kỳ 148 -NGƯỜI CHĂM HƯỞNG ỨNG CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BA TRƯNG
Kỳ 148
NGƯỜI CHĂM HƯỞNG ỨNG
CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BA TRƯNG
CHỐNG NHÀ HÁN
Vào năm 111 TCN, nhà Hán sau khi
dùng vũ lực xâm lược Nam Việt thì tiếp tục xua quân tiến sâu xuống phương nam,
chiếm thêm những vùng đất của những cư dân thuộc nền văn minh Sa Huỳnh, vốn bấy
giờ vẫn chưa lập quốc.
Cho đến khoảng đầu công nguyên, người Sa Huỳnh đã bước vào thời đại đồ
sắt, với các thành tựu văn minh không hề thua kém người Đông Sơn. Tuy nhiên, điều
khác biệt là trong khi những chủ thể của văn minh Đông Sơn đã cùng nhau chung sống
trong một quốc gia thống nhất hàng trăm năm thì cư dân Sa Huỳnh chưa có một nhà
nước chung. Họ sống trong các thành ấp riêng biệt trải dọc dải đất ven biển miền
trung Việt Nam ngày nay.
Những vùng đất phương nam cùng với đất đai bộ Việt Thường của nước Âu Lạc
bị triều đình nước Hán gộp chung lại, đặt thành quận Nhật Nam có địa giới tương
ứng với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi
ngày nay. Quận này gồm có 5 huyện là Tây Quyển, Chu Ngô, Tỷ Cảnh, Lô Dung, Tượng
Lâm.
Chuỗi sự kiện này là những nguyên nhân gián tiếp và trực tiếp thúc đẩy
những cư dân Sa Huỳnh cổ đại tiến tới thành lập nhà nước. Ban đầu, vốn là những
thành ấp nhỏ không thống nhất về lực lượng, họ dễ dàng bị quân xâm lược phương
bắc đánh bại và phải chịu nằm trong vòng kìm tỏa của đế chế Hán. Khi không còn
tự do, tổ tiên người Chăm đã cùng với tổ tiên người Kinh Việt và những dân tộc
khác vùng lên kháng cự mạnh mẽ để thoát khỏi ách đô hộ phương bắc. Tuy nhiên do
điều kiện địa lý khác biệt, hiệu quả của những cuộc đấu tranh đó cũng khác nhau
nhiều.
Bấy giờ vào năm 40 sau công nguyên, Trưng nữ vương Trưng Trắc cùng em
là Trưng Nhị đã lãnh đạo quân dân Lạc Việt dấy binh khởi nghĩa. Chẳng những
khôi phục lại chủ quyền cho người Âu Lạc, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng còn
được sự hưởng ứng của các tộc người láng giềng. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
chép: “Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng”. Quận
Nhật Nam đương thời tức là đất mà tổ tiên người Chăm cư trú. Sau khi Trưng nữ
vương chiến thắng quân Hán thì giang sơn mà bà lập nên ngoài phần lớn vùng Lĩnh
Nam (Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay), đất đai Âu Lạc cũ còn bao gồm cả
đất của người Chăm sinh sống. Đất nước mà Hai Bà Trưng lập nên, sử gọi là nước
Lĩnh Nam, có kinh đô là Mê Linh (thuộc Hà Nội ngày nay). Đó là lần đầu tiên,
người Việt và người Chăm cùng đứng chung một chiến tuyến, cùng chung một chính
thể, một đất nước.
Tiếc rằng, cơ nghiệp của Hai Bà Trưng không được bền lâu do đế chế Hán
thời kỳ này đang rất hùng mạnh, dưới sự cai trị của Hán Quang Vũ Đế là một bạo
chúa cực kỳ quyết tâm bành trướng. Cuộc chiến không cân sức giữa quân dân Lĩnh
Nam và đế chế Hán kết thúc sau 3 năm. Trên khắp một vùng rộng lớn, tướng Hán là
Mã Viện tiến hành việc đàn áp và trả thù vô cùng tàn bạo. Sau khi cuộc kháng
chiến của Hai Bà Trưng thất bại, các sắc dân Lĩnh Nam lại trở lại thân phận
“dân hạng hai” dưới sự cai trị của Hán triều. Trong vòng kìm tỏa khổng lồ ấy, rải
rác vẫn nổ ra những cuộc phản kháng nhằm giành lấy tự do, nhân phẩm và lợi ích
chính đáng của các sắc dân. Một trong những cuộc phản kháng ấy là phong trào
giành độc lập của quân dân huyện Tượng Lâm (bao gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày
nay), thuộc quận Nhật Nam.
Ở quận Nhật Nam nói chung và huyện Tượng Lâm nói riêng thời kỳ này là địa
bàn sinh sống của nhiều nhóm sắc tộc. Trong đó có người Âu Lạc cũ và người Chăm
hai nhóm sắc tộc chính. Do là vùng đất ở xa trung tâm đế chế, vùng phía nam quận
Nhật Nam thường xuyên là nơi xảy ra xung đột mà quân đội nước Hán không thể nào
điều động đủ nhân lực để bình định hoàn toàn. Năm 100 sau công nguyên, 3000
quân dân Tượng Lâm nổi dậy đốt phá dinh thự các quan cai trị người Hán. Đến năm
137, nhân dân Tượng Lâm đứng lên khởi nghĩa, đánh chiếm huyện lị, giết chết
quan đô hộ. Theo sử Việt, lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa này là Khu Liên. Thực tế,
tên gọi Khu Liên này không phải chỉ một nhân vật cụ thể, mà là danh xưng của một
dòng thủ lĩnh người Chăm đương thời.
Ngay sau khi biết tin, viên Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đã điều động
quân binh hai quận Giao Châu, Cửu Chân đông 1 vạn người tiến xuống đánh dẹp.
Trong đội quân này có nhiều người bản địa bị bắt đi lính cho nhà Hán. Khi
được điều động, đại bộ phận binh sĩ đã chống lệnh không tiến quân. Phàn Diễn cố
gắng đốc thúc, binh sĩ không phục bèn làm binh biến bao vây phủ lị. Phàn Diễn bị
dồn vào thế nguy, phải điều động những lực lượng quân người Hán đến để giải vây
và đàn áp. Cuộc chiến của các binh lính địa phương tuy thất bại những đã
góp phần chia lửa cho nghĩa quân Khu Liên. Phàn Diễn mải loay hoay với nội tình
quận Giao Châu, không thể rảnh tay mà điều động quân đông đi cứu viện cho quận
Nhật Nam.
Sang năm 138, thanh thế của nghĩa quân Tượng Lâm ngày càng mạnh. Vua nước
bấy giờ là Hán Thuận Đế Lưu Bảo triệu đình thần bàn bạc, định phát binh bốn
châu Kinh, Dương, Duyện, Dự cả thảy 4 vạn quân đi đánh. Có viên quan là Lý Cổ
can gián, nói rằng: “… Người các châu Duyện, Dự phải đi xa muôn dặm, chiếu
thư thúc bách, tất phải bỏ trốn. Nam Châu [tức chỉ Giao Châu, tên gọi phần
lãnh thổ nước ta dưới thời thuộc Hán] thì trời nắng nực, ẩm thấp lại thêm
lam chướng dịch lệ, 10 phần phải chết đến 4, 5 phần. Đường xa muôn dặm, quân
lính mỏi mệt, đến lúc tới Lĩnh Nam thì đã không kham nổi chiến đấu. Quân đi mỗi
ngày 30 dặm mà Duyện, Dự cách quận Nhật Nam hơn 9 nghìn dặm, phải 3 trăm ngày mới
đến. Tính lương một người ăn mỗI ngày 5 thăng, thì phải dùng đến 60 vạn hộc gạo,
đó là không kể lương thực của tướng lại và lừa ngựa. Đặt quân ở đấy, chết chóc
tất nhiều, đã không đủ quân chống giặc, lại phải bắt thêm. Thế là xẻo cắt lòng
bụng để chắp vá cho chân tay …” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Vua Hán nghe theo lời bàn, thôi không điều quân ở xa mà dùng quân ở hai
quận Giao Châu, Cửu Chân giao cho hai tướng giỏi là Chúc Lương, Trương Kiều đi
đánh, kết hợp với các chính sách chiêu an, mua chuộc. Những dân người Hán ở Nhật
Nam đều phải dời sang trú ẩn ở Giao Châu. Quan tướng người Hán bắt đầu dùng nhiều
tiền bạc, đất đai để chiêu mộ chính những người Chăm đánh lại đồng bào của
mình. Tình hình từ đó biến chuyển thuận lợi cho quân Hán. Tuy nhiên, những
nghĩa quân dưới sự lãnh đạo của các Khu Liên vẫn can trường chiến đấu suốt hàng
thập kỷ, buộc quan quân nước Hán phải nhiều phen tăng viện nhưng vẫn không dẹp
yên nổi.
Năm 190, nghĩa quân Tượng Lâm trở nên hùng mạnh. Khu Liên dẫn quân đánh
chiếm quận lị, giết Thứ sử nước Hán là Chu Phù. Nước Hán bấy giờ phải bận rộn với
những cuộc phản kháng ở khắp nơi. Những sắc dân phi Hán khắp vùng lãnh thổ Bách
Việt, Âu Lạc cũ luôn chực chờ nổi lên khi có cơ hội. Điều đó buộc Hán triều phải
duy trì quân đội rải rác khắp các xứ để phòng bị, buộc lòng phải chấp nhận bỏ mặc
vùng đất xa xôi như Tượng Lâm. Sau khi đại thắng, nhân dân Tượng Lâm bấy giờ,
chủ yếu là người Chăm, đã tôn Khu Liên làm vua. Huyện Tượng Lâm chính thức
thoát khỏi vòng nội thuộc của đế chế Hán. Một quốc gia mới được hình thành với
tên gọi Lâm Ấp.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét