Hà Nội nhìn về biên giới Tây Nam:
tiếng vọng lịch sử và sự chuẩn bị cho tương lai
Khoảng 15% đường biên giới Việt Nam - Campuchia vẫn chưa được
phân định.
Thái Lan và Campuchia vừa tạo ra cuộc xung đột vũ trang quy mô lớn đầu
tiên giữa hai nước thành viên ASEAN, khi tranh chấp chủ quyền đối với một ngôi
đền cổ tại khu vực biên giới đã dẫn đến một cuộc đụng độ quân sự nghiêm trọng
kéo dài năm ngày, khiến hàng trăm người ở hai phía thương vong và hàng trăm
nghìn người khác phải di tản.
Tranh chấp biên giới từ lâu đã là điểm nóng trong quan hệ Thái Lan -
Campuchia. Những vụ đụng độ nhỏ lẻ từng xảy ra vào các năm 2008 và 2011, và người
dân Campuchia thậm chí từng phóng hỏa Đại sứ quán Thái Lan tại Phnom Pênh vào
năm 2003. Tuy nhiên, việc quân đội hai bên sử dụng vũ khí hạng nặng và giao chiến
với cường độ như một cuộc chiến tranh quy mô nhỏ là điều chưa từng có tiền lệ kể
từ khi Campuchia gia nhập ASEAN.
Cuộc xung đột không chỉ biến nguy cơ chiến tranh giữa các quốc gia thành
viên ASEAN thành hiện thực, mà còn khơi dậy những vấn đề tưởng chừng đã lùi vào
quá khứ: chủ nghĩa dân tộc cực đoan và xung đột vũ trang từ tranh chấp lãnh thổ.
Câu hỏi đặt ra là: Việt Nam nhìn thấy điều gì từ cuộc xung đột này? Bởi
trên thực tế, trong nhận thức của nhiều người Campuchia, tranh chấp lãnh thổ với
Việt Nam còn nhạy cảm và sâu sắc hơn cả với Thái Lan.
Chế độ Khmer Đỏ từng tiến hành một cuộc chiến kéo dài từ năm 1975 đến
1979 dọc biên giới với Việt Nam, buộc Việt Nam phải đưa quân vào Phnom Pênh lật
đổ chế độ này và duy trì hiện diện quân sự hao người tốn của cho đến năm 1989.
Lập luận chính của Khmer Đỏ là vùng “Khmer Krom”, bao gồm miền Đông và Tây Nam
Bộ Việt Nam, là lãnh thổ của Campuchia và phải được “đòi lại bằng vũ lực”.
Dù chế độ Khmer Đỏ đã sụp đổ, tư tưởng đòi lại “Khmer Krom” vẫn chưa biến
mất. Niềm tin cho rằng vùng Đồng bằng Sông Cửu Long mới chỉ bị người Pháp trao
cho Việt Nam từ năm 1949 vẫn đang phổ biến ở nước này, trong khi trên thực tế,
chính người Pháp đã ép nhà Nguyễn của Việt Nam nhượng vùng đất này cho họ trong
các hòa ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), sự thật lịch sử này đã được
báo Khmer Times đăng tải thông qua bài viết của Thomas Fowler vào năm 2019.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương thì tranh chấp lãnh thổ với Việt
Nam, nguyên liệu chính để thổi bùng chủ nghĩa dân tộc, vẫn tiếp tục được các đảng
đối lập tại Campuchia khai thác để công kích tính chính danh của chính quyền
Hun Sen và thu hút cử tri.
Theo ông Phương, khoảng 15% đường biên giới Việt Nam - Campuchia vẫn chưa
được phân định. Trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc đang được thổi bùng bởi xung đột
quân sự với Thái Lan, vấn đề biên giới với Việt Nam rất có khả năng sẽ bị “hâm
nóng” trở lại.
Ngoài vấn đề lãnh thổ, theo ông Nguyễn Thế Phương, quan hệ Việt Nam -
Campuchia còn đối mặt với những thách thức khác như: nguồn nước sông Mekong, cộng
đồng người gốc Việt tại Campuchia, vấn đề quân cảng Ream, và các trung tâm lừa
đảo xuyên biên giới. Vì vậy, theo ông, “Campuchia trong thời gian tới chắc chắn
sẽ trở thành một điểm nóng.”
Khi xung đột còn đang xảy ra ở khu vực biên giới giữa Thái Lan và
Campuchia, ông Nguyễn Thanh Nghị, Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM, đã tổ chức hội thảo
với Quân khu 7 (đơn vị quản lý khu vực giáp Campuchia) và tuyên bố cần sẵn sàng
bảo vệ biên giới Tây Nam.
Việc ông Nguyễn Thanh Nghị, một lãnh đạo cấp thành phố, là người truyền tải
thông điệp thay vì một lãnh đạo cấp trung ương là điều đáng chú ý.
Sẽ không có gì đặc biệt nếu ông không phải là con trai của ông Nguyễn Tấn
Dũng, cựu Thủ tướng Việt Nam. Sự nghiệp của ông Nguyễn Tấn Dũng gắn liền với
vùng đất Tây Nam và cuộc chiến chống Khmer Đỏ, ông từng là Trưởng ban cán bộ Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang trong thời kỳ khu vực này chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi các cuộc tấn công của Khmer Đỏ.
Một nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế tại Hà Nội chia sẻ với RFA rằng thay
vì đưa ra các tuyên bố cứng rắn ở cấp trung ương, vốn có thể gây leo thang căng
thẳng, sự xuất hiện của ông Nguyễn Thanh Nghị, con của một cựu lãnh đạo từng trực
tiếp chiến đấu để bảo vệ biên giới, là hình thức ‘răn đe thông qua di sản’, để
truyền đi thông điệp rõ ràng mà không cần nói ra.”
Trao đổi với RFA, Giáo sư Zachary Abuza nhận định: Việt Nam buộc phải
truyền đi thông điệp cứng rắn và nghiêm túc về biên giới Tây Nam, bởi “sẽ là vô
trách nhiệm nếu họ không đến khu vực biên giới trong bối cảnh hiện tại,” ông
nói:
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Nguyễn Thanh Nghị và Tư lệnh Quân khu 7 đến
thị sát khu vực Tây Nam. Chính phủ và Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn còn mang
ký ức sâu sắc về các yêu sách lãnh thổ của Khmer Đỏ và những cuộc tấn công đã dẫn
đến cuộc can thiệp kéo dài 10 năm. Với tình hình hiện nay dọc biên giới Thái
Lan – Campuchia, chỉ cách TP.HCM khoảng 400 km, sẽ là thiếu trách nhiệm nếu họ
không hiện diện tại đó”.
Ông Nguyễn Thế Phương nhận định: Việt Nam từ lâu đã coi Campuchia là “một
điểm bất ổn tiềm tàng”. Khái niệm “tam giác chiến lược” Việt – Lào – Campuchia
trước đây đã được thay thế bằng khái niệm “không gian chiến lược”, nhưng bản chất
không thay đổi:
“Nếu không thể duy trì một không gian láng giềng thân thiện, Việt Nam
không thể phát triển kinh tế một cách yên bình. Campuchia và Lào bình yên thì
Việt Nam mới bình yên. Do đó, việc Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng lên Campuchia
mang nguy cơ tạo ra bất ổn trong tương lai, cả ở khía cạnh an ninh phi truyền
thống lẫn truyền thống.”
Theo ông Phương, Việt Nam không chỉ đang theo dõi một cuộc khủng hoảng ở
biên giới Thái Lan – Campuchia, mà còn chuẩn bị để ngăn chặn một kịch bản tương
tự xảy ra tại biên giới của chính mình.
Trao đổi với RFA, Giáo sư Carlyle A. Thayer (Đại học New South Wales,
Canberra) nhận định rằng quan hệ Việt Nam – Campuchia dưới thời hai nhà lãnh đạo
mới, Tô Lâm và Hun Manet, hiện đang ở trạng thái “ổn định, hợp tác về thương mại,
đầu tư, an ninh – quốc phòng và trao đổi cấp cao.” Đồng thời, quan hệ Việt –
Thái đã được nâng cấp lên “Đối tác Chiến lược Toàn diện.”
Về mặt công khai, Việt Nam đang duy trì hình ảnh trung lập trong xung đột
Thái Lan – Campuchia, cố gắng giữ cân bằng trong quan hệ với cả hai bên.
Tuy nhiên, thực chất, Hà Nội đang triển khai một chiến lược hai hướng: vừa
tăng cường năng lực răn đe quân sự, vừa duy trì các kênh đối thoại và can dự thực
dụng.
Về khía cạnh răn đe, ông Nguyễn Thế Phương cho rằng Việt Nam không chỉ dừng
lại ở lời nói. Sắp tới, Việt Nam có thể sẽ tăng cường năng lực phòng thủ cho
khu vực phía Nam. Cụ thể, Bộ Quốc phòng có thể sẽ bổ sung tàu tên lửa và hệ thống
bảo vệ bờ biển mới cho Vùng 5 Hải quân – đơn vị phụ trách khu vực biển Tây Nam,
bao gồm cả vùng biển quanh Phú Quốc và giáp Campuchia. Việc hiện đại hóa và
tăng cường hỏa lực cho lực lượng này là bước đi cụ thể nhằm đối phó với các mối
đe dọa tiềm tàng từ căn cứ hải quân Ream và những bất ổn trên biển.
Tuy nhiên, răn đe không có nghĩa là đoạn tuyệt. Việt Nam hiểu rằng việc
cô lập Campuchia sẽ chỉ đẩy nước này xích lại gần Trung Quốc và làm mất đi ảnh
hưởng của Hà Nội. Do đó, hướng tiếp cận thứ hai là duy trì can dự sâu rộng.
Ông Nguyễn Thế Phương nói:
“Theo tôi, Việt Nam vẫn cần tăng cường tương tác cả về kinh tế lẫn quốc
phòng với Campuchia. Có thể tận dụng tình huống Campuchia đóng biên với Thái để
thúc đẩy thương mại và giao lưu nhân dân. Mặt khác, Việt Nam hiện vẫn đang huấn
luyện quân đội Campuchia khá nhiều – nhất là lực lượng hải quân và không quân,
phần lớn được đào tạo tại Việt Nam. Kênh liên lạc giữa hai bên vẫn còn, và rất
quan trọng.”
Nhận xét
Đăng nhận xét