Kỳ 147 -CHUYỆN MỘT ĐẾ QUỐC BIẾN MẤT
Kỳ 147
CHUYỆN MỘT ĐẾ QUỐC BIẾN MẤT
TRƯỚC KHI NGƯỜI VIỆT ĐẶT CHÂN TỚI
Nam bộ là vùng lãnh thổ quan trọng
với những trọng điểm kinh tế lớn của nước Việt Nam hiện đại. Trên vùng đất này,
thuở xưa đã trải qua nhiều cuộc bể dâu dời đổi. Đó là một câu chuyện dài, mà điểm
khởi đầu là vương quốc Phù Nam.
Đây là quốc gia của những cư dân văn hóa Óc Eo thuộc chủng
Malayo-Polinesien. Quốc gia này xuất hiện vào khoảng đầu công nguyên, tương ứng
với điểm khởi đầu của nền văn hóa Óc Eo mà khảo cổ học đã khám phá được. Phù
Nam ban đầu là những thành ấp tự trị cùng chia sẻ chung một nền văn hóa. Người
Phù Nam có tục cởi trần hoặc khỏa thân, để tóc xõa hoặc búi cao, xăm hoặc vẽ
mình. Cư dân nơi đây có lối sống phóng túng. Người Phù Nam có tín ngưỡng đa thần
và tiếp thu nhiều yếu tố Phật giáo. Vào thế kỷ thứ 1 sau công nguyên, một
trong những thành ấp lớn nhất trong xứ là Koh Thlok được lãnh đạo bởi một nữ
hoàng mà theo sử sách Trung Hoa chép lại có tên là Liễu Diệp, có sức khỏe như
đàn ông.
Bấy giờ có một vị quý tộc từ Ấn Độ tên là Hỗn Điền thuộc dòng dõi
Kaudinya đem một hạm đội viễn chinh khoảng 1.000 quân đến đánh chiếm Koh Thlok.
Liễu Diệp đem quân chống cự bị bất lợi, phải chịu đầu hàng người Ấn. Hỗn Điền
chấp nhận sự đầu hàng này và cưới Liễu Diệp làm vợ. Sau đó, Hỗn Điền tiếp tục
dùng binh và ngoại giao bắt các thành ấp khác phải quy phục, lập nên một vương
quốc thống nhất.
Sự kiện thành lập vương quốc Phù Nam là dấu mốc tập hợp những cư dân Óc
Eo thành một cộng đồng thống nhất. Kinh đô của Phù Nam là thành Đặc Mục
(Vyadrapura). Theo đoán định từ tổng hợp các nguồn tư liệu, thành Đặc Mục thuở
xưa nằm ở miền Tây Nam Bộ hoặc cực đông Campuchia, gần vịnh Thái Lan ngày nay.
Dưới triều đại Kaudinya, nước Phù Nam tiếp thu nhiều văn hóa Ấn. Có nền
tảng văn hóa tốt, giỏi trị thủy và chiếm giữ một vị thế thuận lợi trong tuyến
đường hàng hải cổ đại, Phù Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia hùng mạnh và
giàu có.
Theo các sách sử Trung Hoa, triều Kaudinya tồn tại khoảng 150 năm. Đến khoảng
giữa thế kỷ thứ 2, dưới thời trị vì của vua Hỗn Bàn Bàn, chính sự chịu
sự thao túng bởi vị tướng tên là Phạm Mạn. Sau khi vua Hỗn Bàn Bàn qua đời, người
trong nước tôn Phạm Mạn làm vua, mở ra triều đại mới. Chữ Phạm theo âm Hán Việt
thực chất là phiên âm từ chữ Varman trong ngôn ngữ các nước Ấn hóa, có nghĩa là
vua. Vì vậy, cái tên Phạm Mạn trong sử cũ không phải là phiên âm từ tên thật,
mà là phiên âm từ danh xưng của vị vua này sau khi đã lên ngôi.
Là một vị vua nhiều tham vọng, Phạm Mạn cho đóng thuyền lớn, cất quân
đi thôn tính các quốc gia xung quanh. Quân Phù Nam biến 10 nước láng giềng
thành thuộc địa. Lúc này, Phù Nam đã trở thành một đế quốc biển cả. Do đặc tính
hướng biển, những nơi mà Phù Nam nhòm ngó và xâm chiếm là những vùng đất ven biển
thuận lợi cho nông nghiệp trồng lúa nước và giao thương. Lãnh thổ Phù Nam mở rộng
bao chiếm trọn vùng Nam Bộ Việt Nam, vùng đông nam Campuchia và bán đảo
Malaysia ngày nay. Vương triều họ Phạm truyền đến đời vua Phạm Tầm tiếp thu ảnh
hưởng của văn minh Trung Hoa, bắt đầu sửa sang thể chế, xây dựng cung điện nhiều
tầng lầu. Nhà vua hạ lệnh cho dân chúng bỏ tục ở trần hoặc khỏa thân, bắt phải
quấn vải khổ rộng (xà rông ).
Đến giữa thế kỷ thứ 4, Phù Nam được cai trị bởi vương triều Thiên Trúc
Chiên Đàn (Chandan). Giai đoạn này Phù Nam phát triển ổn định và lãnh thổ tiếp
tục được mở rộng thêm nhiều vùng thuộc lãnh thổ Campuchia ngày nay, vươn sang cả
đồng bằng sông Mênam thuộc Thái Lan ngày nay. Trong lãnh thổ đế quốc Phù Nam,
có nhiều sắc dân cùng chung sống. Tất nhiên là quyền lợi của họ không
bình đẳng mà những dân chính quốc luôn được hưởng nhiều đặc quyền hơn
nhưng dân thuộc quốc.
Vào thế kỷ thứ 5 một quý tộc thuộc dòng dõi Kaudinya tên là Kiều
Trân Như được dân chúng suy tôn làm vua, lập ra vương triều Kaudinya II. Triều
đại này càng tiếp thu nhiều văn hóa Ấn, lấy hai tôn giáo chính là Phật giáo và
Bà La Môn làm nền tảng tư tưởng cho cả nước. Trong suốt nhiều năm, Phù Nam phát
triển hưng thịnh, trở thành một trong những đế quốc hàng hải hùng mạnh nhất thế
giới cổ đại, là cầu nối giữa các nền văn minh lớn thời bấy giờ là La Mã, Ba Tư ở
phương Tây, và Ấn Độ, Trung Hoa ở phương Đông. Tuyến đường hàng hải từ Phù Nam
là một trong những ngã đường du nhập Phật học vào Trung Hoa. Sử Trung Hoa các
triều đại Đông Ngô, Tấn, Lương, Tùy, Đường… ghi chép rất nhiều lần phái đoàn
Phù Nam sang “tiến cống”. Về bản chất, những chuyến đi “tiến cống” này là một dạng
thương mại cấp nhà nước. Phái bộ của nước ngoài đến tặng “cống phẩm” của nước sở
tại. Đổi lại, nhà vua cũng phải gửi lại những “tặng phẩm” để đáp lễ.
Trải qua nhiều thế kỷ hưng thịnh, Phù Nam gặp phải tai ương vào giữa thế
kỷ thứ 6. Bấy giờ ở vùng mà ngày nay là miền Bắc nước Campuchia và Nam Lào, một
thuộc quốc của Phù Nam là nước Chân Lạp của người Khmer bắt đầu quật khởi. Dòng
vua mang họ Kshatrya đã tiến hành cuộc chiến giành độc lập cho dân tộc Khmer và
ngày càng mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra xung quanh. Trong lúc đó thì Phù Nam
đang bị xáo trộn bởi cuộc tranh giành quyền lực giữa các hoàng tử, khiến thế nước
suy sụp nhanh chóng. Nhân cơ hội, Chân Lạp lấn chiếm thêm nhiều vùng đất vốn
trước đó thuộc quyền cai trị trực tiếp hoặc nằm trong hệ thống thuộc địa của
vương quốc Phù Nam. Vào năm 550, vua Chân Lạp là Trì Đà Tư Na (Citrasena) dẫn
quân thình lình tấn công kinh thành Đặc Mục của Phù Nam. Vua Phù Nam bấy giờ là
Lưu Đà Bạt Ma (Rudravarman) chống không nổi, phải bỏ kinh thành chạy sang thành
Na Phất Na (Navanagara). Thành Đặc Mục (Vyadrapura) là trung tâm của nước Phù
Nam với nhiều di sản, của cải trọng yếu của đất nước bị quân Chân Lạp đốt phá
tan hoang trong phút chốc. Từ đó, vương quốc Phù Nam suy sụp không còn gượng dậy
nổi. Các phụ thuộc của Phù Nam dần ly khai và bản thân chính quốc bị người Chân
Lạp lấn chiếm dần. Cho đến khoảng thế kỷ 7, nước Phù Nam hoàn toàn bị xóa sổ và
bị sáp nhập vào nước Chân Lạp.
Chưa dừng lại ở đó, số phận của cư dân Phù Nam cổ không chỉ là trở
thành một phần của đất nước mới mà còn bị bi thảm hơn. Những người Khmer tuy
chiến thắng được Phù Nam bằng quân sự nhưng không đủ năng lực để duy trì khả
năng khai thác lãnh thổ như trước. Người Khmer không giỏi trị thủy, không có tập
quán canh tác ở những vùng đồng bằng phù sa ven biển. Các vua chúa Chân Lạp sau
khi tàn phá các thành phố của người Phù Nam thì dần bỏ mặc những vùng đất mới
chiếm được. Mất đi sự quan tâm từ thượng tầng, người Phù Nam dần trở nên bất lực
trong việc trị thủy và xây dựng những trung tâm thương mại, hàng hải như xưa.
Đó là những việc đòi hỏi phải có sự đoàn kết toàn xã hội.
Trên lãnh thổ Phù Nam xưa thuộc vùng Nam Bộ ngày nay, vào khoảng thế kỷ
thứ 8 trở đi được sử sách Trung Hoa gọi là vùng Thủy Chân Lạp, để phân biệt
với vùng Lục Chân Lạp là đất căn bản của nước Chân Lạp. Trong khi vùng Lục Chân
Lạp được khai thác mạnh mẽ thì Thủy Chân Lạp dần biến thành những vùng đầm lầy
hoang phế. Thêm vào đó, người Java cất quân xâm lấn biến đất Thủy Chân Lạp trở
thành bãi chiến trường của quân Khmer và quân Java suốt nhiều năm trời. Cuộc
chiến làm cho nhiều người chết, nhiều nơi bị tàn phá càng trở nên hoang vắng.
Nhiều trăm năm sau nữa, người Khmer lao vào các cuộc chiến triền miên với thế lực
người Thái nổi lên ở phía tây và người Chăm ở phía đông. Việc thực thi chủ quyền
trên đất Thủy Chân Lạp rất hạn chế. Đến khoảng thế kỷ 17 khi những người Việt đặt
chân lên vùng đất này, ký ức về một nền văn minh rực rỡ thuở xưa đã quá nhạt
nhòa. Chỉ còn lại thiên nhiên hoang dã với những cánh đồng hoang bất tận, đầm lầy
và rừng rậm nguyên sơ thưa thớt bóng người.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét