Chuyển đến nội dung chính
NGUYỄN HUY THIỆP qua những lời tự kể
NGUYỄN HUY THIỆP
qua những lời tự kể
1.
“Theo tử vi, tôi sinh giờ Ngọ, ngày mùng 10 tháng 3 (căn cước ghi ngày
29/4/1950). Nơi sinh là ở Thái Nguyên, nơi bố tôi làm đường sắt trên đó, sau
ông đi kháng chiến chống Pháp. Khi ấy, ông từng làm thẩm phán Tòa án chiến khu
Việt Bắc. Sau 1954, gia đình tôi về sống tại quê ông ngoại tôi ở làng Kim Anh,
Vĩnh Phúc. Ở đấy có cái bến Cốc bên sông, có một xóm đạo nhỏ. Ông ngoại tôi là
cụ Đỗ Đình Lĩnh, thường gọi là cụ Bá Lĩnh, người Mộc Quan Nhân. Khi Pháp đánh
Hà Nội, cụ lên Kim Anh sinh sống, dùng tiền mua chức Bát phẩm để dễ sống.
Cụ là người có chí thanh cao. Cụ thân với cha Tất ở trong một xóm đạo nhỏ.
Cụ từng giúp cha Tất và xóm đạo một nửa tiền để xây nhà thờ. Tuy gia đình tôi
không theo đạo nhưng tôi lại chơi thân với cha Tất. Ông hay kể cho tôi nghe về
tiểu thuyết “Ba người lính ngự lâm pháo thủ”. Tôi hay đi nhà thờ nghe các linh
mục giảng kinh. Lúc ấy, tôi cảm thấy tôn giáo ấy có gì thật gần gũi. Tôi có bị ảnh
hưởng ít nhiều từ nhà thờ và đạo Công giáo...
Ông ngoại tôi luận về chữ “Thiệp” nghĩa là trải qua, êm đềm, may mắn. Năm
1960, gia đình tôi về lại xóm Cò, thuộc làng Khương Hạ, xã Khương Đình, huyện
Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, nơi ở bây giờ rồi vào học lớp 4 ở Trường Khương
Thượng, sau đó theo học cấp 3 Trường Trưng Vương, đóng tại Ô Chợ Dừa. Ông ngoại
tôi có lần về ở với gia đình tôi; được mấy tháng, thấy bức bối, cụ lại trở lại
Kim Anh. Ông ngoại tôi ảnh hưởng nhiều tới con đường viết văn của tôi.
Mẹ tôi vốn là con nhà giàu, biết nấu ăn ngon; khi ở Kim Anh, bà thường nấu
ăn cho các cha đạo. Bà thuộc lòng những truyện Nôm như “Tống Trân Cúc Hoa”, “Nhị
độ mai”... Bố tôi là công chức lưu dung, học thời Pháp. Khi làm thẩm phán, ông
thường cưỡi con ngựa trắng, đi đâu có người đi theo bảo vệ. Bố tôi cũng là người
yêu văn học. Ông mua cho tôi bộ “Tam quốc”. Nhưng, ông cũng sợ văn chương. Khi
tôi nổi tiếng, ông sợ lắm. Bố tôi mất năm 1990”.
2.
“Năm 1970, tôi lên Tây Bắc làm giáo viên ở Trường Bổ túc công nông, dạy
cho cánh cán bộ lãnh đạo của tỉnh. Lúc ấy tôi trẻ măng, mới có 20 tuổi. Toàn học
trò lớn tuổi, họ là cán bộ được cử đi học; trình độ của họ không đồng đều nên dạy
khó lắm. Tôi nghĩ, phải thay đổi cách dạy. Ngày đó, tôi hay lên thư viện đọc
sách. Tôi nhớ, tôi đọc hết cả quyển “Từ điển Triết học” của Liên Xô. Đọc sách
xong, trong các giờ dạy, tôi cứ kể lại những gì tôi đọc được ở trong các sách
cho các học trò nghe. Giờ giảng thế mà lại hay, hữu ích. Tôi nhìn vào họ, tôi
biết...
Lúc ấy đói khổ, có khi đi trộm sắn trên nương về ăn. Một hôm, nhìn xa xa
trên núi thấy vạt sắn, mấy anh em rủ nhau đi... ăn trộm. Đi mãi không thấy, bị
lạc đường. Vội quay về thì trời đã muộn. Vậy là, đã đói lại càng đói hơn.
Có một anh bạn giáo viên trông đẹp trai, cao to, giống con nhà quý tộc. Một
hôm, một anh bạn khác bắn được con quạ, hay con diều hâu gì đó, đem về làm thịt
nấu ăn. Khi mổ ra, thấy trong dạ dày con này có một con rắn, họ đem cái dạ dày
đi chôn. Khi ăn, tanh lắm, tôi không dám ăn. Một con quạ bé bằng nắm tay, mà
người thì đông, chả đáng là bao. Đói khổ thế đấy.
Tôi than đói khổ với anh Nguyễn Trung Vệ, bấy giờ làm Giám đốc Ty Lâm
nghiệp tỉnh. Anh ấy thương tôi lắm, coi tôi như em. Lúc nào có miếng ăn ngon,
anh ấy cho người đón tôi sang ăn. Có hôm, tôi than thở không có tiền, anh ấy bảo
tôi vào rừng chặt mấy cây gỗ lát ra mà chở về xuôi bán kiếm tiền. Tôi nghe thấy
phải, thuê thợ vào chọn hai cây to nhất. Khi xẻ ra, chuyển về phòng chất ngất một
góc phòng toàn gỗ lát. Nhưng, tôi chả biết phải làm gì với đống gỗ này. Lúc ấy
tôi đang ở Trường Bổ túc công nông. Khi thấy tôi có đống gỗ trong nhà, họ lại
xoay sang ghét tôi, mặc dù trước đó tôi vốn được mọi người quý.
Sau đó, tôi được điều sang dạy cấp 3 Hát Lót vào 2 năm cuối trước khi
chuyển vùng (1980), tôi lại hì hục chuyển đống gỗ ấy sang cơ quan mới. Họ thấy
tôi nhiều gỗ quá, lại quay sang ghét tôi, mà ghét tôi nhất là tay hiệu phó. Khi
chuyển về Hà Nội, do có cái lệnh của Ty Lâm nghiệp nên tôi chuyển được khối gỗ
lát về, nhưng mang về cũng cứ chất đấy chứ có biết làm gì. Thật may, tay hiệu
phó cũng chuyển về Hà Nội sau tôi ít ngày, lại tìm đến hỏi mua, thế là tôi bán
tống đi. Thực ra cái loại gỗ ấy cũng chẳng làm được gì, đến đóng bàn ghế người
ta cũng chả thích”.
3.
“Khi về Hà Nội, tôi cứ lang thang đi xin việc, chả biết bắt đầu như thế
nào. Nộp hồ sơ lên Sở Giáo dục, họ bảo cứ để đấy. Một hôm, tôi lang thang sang
làng Vẽ, quê vợ tôi, tự nhiên gặp một anh học viên học tôi từ hồi ở Sơn La. Anh
ấy đang làm Hiệu trưởng Trường Cán bộ thanh tra, hỏi thầy đi đâu mà lại bộ dạng
có vẻ thất thểu thế. Tôi mới nói là đang thất nghiệp, đang đi xin việc mà khó
quá. Anh ấy bảo em mời thầy về với em, em học thầy, hiểu được tính thầy, thầy về
phụ trách phòng giáo vụ cho em.
Nhưng, đến lúc xem hồ sơ, anh ấy bảo sao ai nhận xét lý lịch cho thầy lại
tệ thế này. Thôi, thay đi mấy trang, làm lại cũng không sao, thầy ạ. Em làm
ngay cái giấy tiếp nhận rồi thầy lên Bộ xin chuyển sang đây ngay nhé. May thế
chứ, gặp được người tốt thế. Sau đó, tôi lên Bộ Giáo dục; lúc đưa hồ sơ, gặp một
ông ở Vụ Tổ chức. Xem xong hồ sơ, ông ấy bảo cậu có cái lý lịch đẹp thế này,
nên ở lại ngành Giáo dục, sang ngành khác làm gì. Thế là ông ấy cho tôi về Nhà
xuất bản Giáo dục. Đến năm 1986 thì tôi sang Công ty Sách và Thiết bị trường học
- Nhà xuất bản Giáo dục.
Trong nhiều công việc tôi làm ở Nhà xuất bản Giáo dục, có lần tôi được
phân công tham gia một dự án: Đi tìm hiểu, gặp gỡ để viết về một số nhà văn nổi
tiếng lúc bấy giờ. Đây là dịp tôi được tiếp xúc nhiều, đọc nhiều và hiểu họ
đang như thế nào. Một hôm, tôi gõ cửa vào phòng một nhà văn chức sắc. Phòng
không khóa, tôi đẩy cửa bước vào, thấy ông ấy đang cởi trần nằm ngủ. Một hình ảnh
thật xấu xí đập vào mắt tôi... Có lẽ, bị ám ảnh chuyện này, cộng với một vài lý
do khác, tôi bỏ không tham gia dự án này nữa. Lúc đó, tôi đã nghĩ cần phải có một
thứ văn chương khác, khác với tất cả họ.
Hồi tôi còn bé, ông ngoại tôi là người biết tử vi nên lập lá số cho tôi.
Cụ bảo, tôi sinh ra đã vất vả, sau này đi theo con đường văn chương nhưng phải
qua 3 giáp thì mới nhập thế được, nếu sớm quá hay muộn quá cũng là hỏng. Ngẫm lại
thấy đúng vì phải đến năm 1986, khi tôi 36 tuổi và là lúc Đổi mới thì tôi mới
xuất hiện. Năm 1987 tôi cho in “Tướng về hưu”. Sau truyện này, nhà thơ Thu Bồn
và Nguyễn Duy giúp tôi ra tập truyện mỏng mang tên “Tướng về hưu” giấy đen, có
một ông làm nghề buôn giấy đã ủng hộ giấy cho in. Kim Thánh Thán từng nói: “Văn
hay do cùng”.
Tôi vẫn quan niệm nghề viết văn không dạy được, nhưng muốn viết văn thì
phải học, bởi làm văn chương là đi tìm đạo, học để cảm nhận được cái đạo của
người viết. Trước đây, lúc tôi đã nổi tiếng sau khi in “Tướng về hưu” và một số
truyện khác, tôi viết truyện vẫn còn nhiều tham - sân - si lắm. Phải đến khi
tôi viết “Sống dễ lắm” vào năm 2000, lúc ấy mới thoát được. Sau vụ tôi in tập
“Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn”, có hai ông nhà
văn tuyên bố: “Đóng ván thiên cho Thiệp”. Lúc đó tôi phải viết vở kịch “Mổ nhà
văn” đáp lại.
Làm nhà văn cũng phải có tiền, trước khi làm nhà văn, anh phải biết kiếm
tiền nuôi vợ con đã, không có tiền người ta khinh cho”.
Nhận xét
Đăng nhận xét