Kỳ 157 -CHIÊM THÀNH CẦU HÒA ĐẠI VIỆT
Kỳ 157
CHIÊM THÀNH CẦU HÒA ĐẠI VIỆT
ĐỂ ĐẠI CHIẾN VỚI CHÂN LẠP
Các đợt tấn công liên tục của nước Chân Lạp trong kể từ khi vua
Suryavarman II lên ngôi (năm 1113) đã khiến đất nước của người Chiêm bị tàn phá
nặng nề. Thậm chí có khoảng thời gian Chiêm Thành bị xóa sổ khỏi bản đồ, trở
thành thuộc địa của nước Chân Lạp. Năm 1150, vua Chiêm Thành là Jaya Harivarman
I sau những nổ lực kháng chiến không ngừng nghỉ đã khôi phục lại được kinh
thành Vijaya và góp phần gián tiếp khiến vua Suryavarman II thiệt mạng, nhưng mối
họa xâm lăng đến từ nước Chân Lạp đối với Chiêm Thành vẫn còn tồn tại dai dẳng
về sau. Và ở chiều ngược lại, nước Chiêm Thành cũng là một thế lực hiếu chiến
khi họ trở nên hùng mạnh. Kể từ khi đất nước bị quân Chân Lạp tàn phá và chiếm
đóng vào những năm 1145-1150, ý chí báo thù của người Chiêm quốc đã không còn
nhắm vào nước Đại Việt mãnh liệt như trước mà chuyển sang căm thù người nước
Chân Lạp. Ngoài ra, các đời vua Chiêm luôn phải bận tâm củng cố quyền lực trong
nước, ngăn chặn xu hướng ly khai của các tiểu vương.
Từ hàng trăm năm trước, việc năm xứ của người Chiêm nắm giữ quyền tự trị
quá cao luôn là một vấn đề nhạy cảm đối với bất cứ triều đại Chiêm Thành nào.
Trải qua những nhiều biến cố, xứ Panduranga ở cực nam Chiêm Thành dần trở nên
giàu mạnh, thách thức quyền lực của triều đình Vijaya. Cùng với đó, các xứ khác
cũng chỉ phục tùng triều đình khi mà có chung lợi ích và nhà vua có đủ uy tín
cũng như sức mạnh quân sự. Đến nửa cuối thế kỷ 12, nước Chiêm Thành là một quốc
gia liên bang khá lỏng lẻo, và riêng xứ Panduranga gần như là một nước riêng biệt.
Vua Jaya Harivarman I đối diện với nguy cơ đất nước của ông hoàn toàn bị phân
rã.
Năm 1151, vua Jaya Harivarman I phải thân chinh đi đánh xứ Amaravati
(thuộc Quảng Nam, Đà Nẵng ngày nay) vì chống đối lại uy quyền của triều đình
Vijaya. Sau đó để được yên ổn mặt bắc, vua Jaya Harivarman I đã chủ động giao hảo
với triều đình Thăng Long. Năm 1154, vua Jaya Harivarman I đã đem dâng con gái
của mình cho vua Lý Anh Tông, một cử chỉ thể hiện sự thuần phục và kết thân.
Vua Lý Anh Tông đã thu nhận người con gái nước Chiêm, qua đó cũng chấp nhận sự
thuần phục về ngoại giao của Chiêm Thành. Sự kiện này là tiền đề quan trọng cho
vua Jaya Harivarman I thực hiện kế hoạch phục hưng đất nước và báo thù nước
Chân Lạp của mình. Khi đã yên mặt bắc, quân đội của triều đình Vijaya ồ ạt đánh
xuống xứ Panduranga hòng buộc xứ này quay trở lại quỹ đạo của một đất nước
Chiêm Thành thống nhất. Panduranga là một thế lực không dễ đối phó. Họ đã cầm cự
với vua Jaya Harivarman I suốt hàng năm trời. Cho đến năm 1161, xứ này phải chịu
khuất phục triều đình Chiêm Thành, công nhận vua Jaya Harivarman I là vua của
toàn cõi Chiêm Thành. Panduranga vẫn giữ được nhiều quyền tự trị của mình và tiểu
vương xứ này vẫn giữ được quyền thế tập.
Vua Jaya Harivarman I đã thành công trong việc tái thống nhất nước
Chiêm Thành và củng cố quyền lực của Vijaya nhưng di sản của ông để lại không hề
bền vững. Sau khi Jaya Harivarman I mất, con trai ông là vua Jaya Harivarman II
không đủ năng lực để khuất phục các tiểu vương. Ở xứ Panduranga, Po Klong Garai
trở thành tiểu vương mới một lần nữa nổi lên chống lại triều đình Vijaya. Là một
nhân vật giỏi về quân sự và đầy tham vọng, Po Klong Garai đã cho thấy vua Jaya
Harivarman II không phải là đối thủ của mình. Năm 1167, Po Klong Garai dẫn quân
Panduranga đánh chiếm kinh thành Vijaya, lật đổ vua Jaya Harivarman II. Po
Klong Garai trở thành vua của nước Chiêm Thành, lấy hiệu là Jaya Indravarman
IV.
Vừa lên ngôi, vua Jaya Indravarman IV đã phải đối diện với nguy cơ bị
nước Đại Việt tấn công, vì hành động không nhất quán của đời vua trước đó. Số
là vào năm 1166 dưới thời vua Jaya Harivarman II, sứ giả nước Chiêm Thành tuy đến
Thăng Long triều cống nhưng khi trở về lại tùy tiện cướp bóc dân ven biển ở hai
châu Ô, Lý. Năm 1167, Thái úy Tô Hiến Thành lấy cớ đó đem đại quân vào đánh
Chiêm Thành. Đại Việt dưới thời vua Lý Anh Tông vốn không còn hưng thịnh như
các đời vua trước, nhưng binh uy so với Chiêm Thành vẫn mạnh hơn rất nhiều. Nhận
thấy không thể đối địch được với láng giềng phương bắc, vua Jaya Indravarman IV
đã đem lễ vật đến doanh của quân Đại Việt cầu hòa. Thái úy Tô Hiến Thành đã chấp
nhận lời cầu hòa của nước Chiêm Thành, dùng lời phủ dụ răn vua Chiêm phải cư xử
đúng mực nếu không muốn bị trừng phạt bằng vũ lực. Từ đó nước Chiêm theo định kỳ
mà triều cống, luôn giữ lễ phiên thần với Đại Việt. Quan hệ hai nước lại tốt đẹp.
Giải quyết xong những rắc rối với Đại Việt, Jaya Indravarman IV bắt tay ngay
vào kế hoạch phục hưng nước Chiêm Thành.
Đồng thời với việc kết thân với Đại Việt, vua Chiêm cũng cố gắng kết
bang giao với nước Tống để tranh thủ các lợi ích về thương mại. Các hoạt động
buôn bán được mở rộng, thương cảng dọc bờ biển nước Chiêm Thành dần lấy lại vẻ
thịnh vượng. Chiêm Thành dưới sự trị vì của Jaya Indravarman IV đã thực sự tái
thống nhất. Các xứ Chiêm trở nên đoàn kết hơn, hứa hẹn đem tạo ra một sức mạnh
to lớn.
Trên những nền tảng đó, vua Jaya Indravarman IV tập trung nguồn lực để
xây dựng quân đội hùng mạnh, với mục đích là để báo thù nước Chân Lạp. Ban đầu,
vua Chiêm có kế hoạch mua ngựa chiến từ nước Tống để xây dựng kỵ binh hùng mạnh,
hòng giành ưu thế với Chân Lạp trong một cuộc chiến trên bộ. Nhưng kế hoạch đó
đổ vỡ, bởi chính bản thân nước Tống cũng rất cần ngựa chiến nên đã không đáp ứng
mong muốn mua ngựa của Chiêm Thành. Vả lại, Tống cũng rất kiêng dè khi giao thiệp
với Chiêm quốc vì ái ngại sẽ đụng chạm đến nước Đại Việt. Thất bại trong kế hoạch
mua ngựa từ nước Tống, vua Jaya Indravarman IV chuyển sang nổ lực xây dựng một
hạm đội hùng mạnh để đột kích Chân Lạp bằng đường sông. Trong khoảng 10 năm trời,
cả nước Chiêm Thành vừa khẩn trương xây dựng kinh tế, vừa hừng hực khí thế mài
gươm báo thù.
Trong khi đó thì tại Chân Lạp, năm 1167 một viên quan trong triều đã
làm chính biến lật đổ vua Yasovarman II và cướp ngôi, xưng là vua
Tribhuvanadityavarman. Quân dân Chân Lạp nhiều người không phục mà nổi lên chống
lại. Chân Lạp từ đó trải qua một thời kỳ rối loạn. Chớp lấy thời cơ, năm 1177
vua Jaya Indravarman IV thân chinh dẫn hạm đội Chiêm Thành theo dòng sông Mê
Kong hành quân thần tốc tiến đánh Chân Lạp. Khi quân Chiêm Thành tiến đến hồ
Tonle Sap (tức Biển Hồ), quân Chân Lạp đã hoàn toàn bị bất ngờ và bị kẻ địch
đánh tan tác. Thừa thắng, Jaya Indravarman IV theo đường sông Siem Reap đánh
chiếm kinh đô Angkor (bấy giờ gọi là thành Yasodharapura). Vua
Tribhuvanadityavarman bị quân Chiêm Thành giết chết trong trận chiến, thành
Angkor thất thủ. Nhân danh trả thù cho những gì người Chân Lạp đã gây ra trong
những năm xâm lược và chiếm đóng Chiêm Thành xưa kia, vua Jaya Indravarman IV
thả cho quân lính mặc sức cướp giết người Chân Lạp, đốt phá tan tành kinh thành
Ankor.
Thế nhưng thắng lợi của quân Chiêm Thành dù to lớn thì vẫn chỉ là nhất thời.
Từ vị thế kẻ bị xâm lược, người Chiêm lúc này đóng vai trò kẻ xâm lược cường bạo
làm toàn thể người nước Chân Lạp căm phẫn và xích lại gần nhau hơn. Ngay sau
khi tin tức thành Angkor bị tàn phá không thương tiếc, một hoàng thân nước Chân
Lạp, con trai của vua Dharanindravarman II (vị vua trị vì Chân Lạp từ năm 1150
đến năm 1160) đã dấy binh khởi nghĩa và nhanh chóng tập họp được những lực lượng
lớn mạnh, tiến hành kháng chiến chống quân Chiêm.
Trong bốn năm ròng chiến đấu, quân khởi nghĩa dần giành ưu thế và đánh
bại quân Chiêm ngay tại hồ Tonle Sap. Một chiến thắng khác của người Chân Lạp tại
đền Preah Khan thuộc Angkor vào năm 1181 buộc quân Chiêm Thành phải chịu rút
lui. Lãnh tụ phong trào khởi nghĩa của người Chân Lạp bấy giờ lên ngôi vua, lấy
hiệu là Jayavarman VII. Ông được xem là vị vua huyền thoại của nền văn minh
Ankor, với chiến công giành lại độc lập cho đất nước là nhiều thành tựu lớn
khác trong thời gian trị vì.
Đây là một giai đoạn đặc biệt khi mà cả hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp
đều xuất hiện vua chúa có tài năng kiệt xuất. Cuộc đối đầu giữa vua Jaya
Indravarman IV nước Chiêm Thành và Jayavarman VII nước Chân Lạp là một mảnh lịch
sử lớn được khá nhiều sử gia phương đông và phương tây nghiên cứu. Những trận đại
thủy chiến trên hồ Tonle Sap được lưu giữ trong ký ức cả người Chiêm Thành,
Chân Lạp bằng hàng loạt các phù điêu, văn bia và truyện kể. Cuộc đối đầu này vốn
là tiếp nối những ân oán giữa hai nước từ thời vua Suryarvarman II xâm lược
Chiêm Thành, và nó còn kéo dài sang tận thế kỷ 13 với những sự kiện lớn đẫm máu
khác đã góp phần làm suy yếu cả hai nền văn minh…
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét