Kỳ 158 -CHIÊM THÀNH BỊ CHÂN LẠP THÔN TÍNH
Kỳ 158
CẦU CỨU ĐẠI VIỆT BẤT THÀNH
CHIÊM THÀNH BỊ CHÂN LẠP THÔN TÍNH
Nửa cuối thế kỷ 12 chứng kiến một sự kiện chấn động ở khu vực Đông Nam
Á là việc kinh thành Angkor của đế quốc Chân Lạp bị Chiêm Thành, một nước nhỏ
hơn rất nhiều chiếm đóng và cướp phá tan hoang. Chiến công này là thành quả từ
hơn một thập kỷ nỗ lực của vua Jaya Indravarman IV, chứng minh sức chiến đấu
đáng gờm của người Chiêm Thành một khi họ có thể huy động sức mạnh tổng hợp của
toàn thể các xứ Chiêm dưới một sự lãnh đạo thống nhất. Tuy nhiên thắng lợi của
vua Jaya Indravarman IV chỉ là nhất thời. Chẳng những vậy, chiến thắng này dẫn
đến một hệ quả vô cùng tai hại cho nước Chiêm Thành là nó đã gián tiếp khiến cuộc
tranh giành quyền lực trong nội bộ giới quý tộc Chân Lạp kết thúc. Thay vào đó,
người nước Chân Lạp đã có động lực để đoàn kết lại, cùng quay mũi giáo về nước
Chiêm Thành. Với tiềm lực vượt trội cả về nhân lực lẫn tài nguyên, người Chân Lạp
đã quật khởi ngay sau thất bại.
Sự xuất hiện của vua Jayavarman VII nước Chân Lạp kể từ năm 1177 đã làm
gió đổi chiều trong cuộc đối đầu giữa Chiêm Thành và Chân Lạp. Năm 1181, vua
Jayavarman VII lên ngôi sau khi đã đánh đuổi được quân Chiêm Thành, khôi phục lại
kinh đô và nhiều vùng lãnh thổ. Sự trị vì của nhà vua mới đã giúp nước Chân Lạp
phục hồi mạnh mẽ, trở lại vị thế của một đế quốc đương thời. Dưới thời vua
Jayavarman VII, thành Angkor Thom bắt đầu được khởi công xây dựng, là sự tiếp nối
của kinh thành Angkor Wat trước đó. Ở phía đối nghịch, vua Chiêm là Jaya
Indravarman IV vẫn cố gắng duy trì thế tiến công của Chiêm Thành.
Nhưng cục diện dần bất lợi cho ông khi mà vua Jayavarman VII đã lãnh đạo
quân Chân Lạp đứng vững, và dần chuyển sang phản công. Năm 1190, một hoàng thân
người Chiêm quốc lưu vong tại Chân Lạp là Sri Vidyanandana đã được vua
Jayavarman VII tin tưởng giao quyền lãnh đạo một đạo quân lớn tiến đánh nước
Chiêm Thành. Sri Vidyanandana vốn là một hoàng tử Chiêm Thành nhưng từ năm 1182
đã sang sống ở Chân Lạp, được vua Jayavarman VII thu nhận làm tướng. Nhờ có
công dẹp loạn xứ Malyan thuộc Chân Lạp, Vidyanandana được vua Jayavarman VII rất
tin dùng, phong làm Phó vương.
Dưới sự lãnh đạo của Vidyanandana, quân Chân Lạp ồ ạt tiến sang Chiêm
Thành, kinh đô Vijaya thất thủ ngay trong năm 1190 trước ưu thế vượt trội của kẻ
địch. Vua huyền thoại Jaya Indravarman IV của nước Chiêm Thành bị bắt trong cuộc
chiến. Vua Chân Lạp sau đó phong cho người anh rể của mình là In làm “vua
Vijaya”, lấy hiệu là Surya Jayavarmadeva. Trên thực tế là một vị vua bù nhìn của
đế quốc Chân Lạp.
Hoàng thân Sri Vidyanandana cùng các thuộc hạ thân tín tiến vào
Panduranga, tự lập làm vua của xứ này, xưng hiệu là Sri Suryavarman. Nước Chiêm
Thành bấy giờ bị chia làm hai phần. Các xứ miền bắc trên thực tế trở thành thuộc
địa của nước Chân Lạp. Riêng xứ Panduranga vẫn giữ quyền tự chủ nhờ vào mối
quan hệ tốt giữa Sri Suryavarman với vua Jayavarman VII, nhưng trên danh nghĩa
vẫn phải nhận sắc phong và chịu phục tùng vua Chân Lạp.
Năm 1192, một hoàng tử xứ Vijaya là Rasupati phất cờ khởi nghĩa. Quân
bù nhìn thân Chân Lạp của Surya Jayavarmadeva không chống nổi sự phản kháng mạnh
mẽ của người Chiêm, buộc phải tháo chạy. Rasupati lên ngôi vua Chiêm Thành,
xưng hiệu là Jaya Indravarman V. Khi biết tin Jaya Indravarman V lên ngôi, vua
Jayavarman VII đã thả cựu vương Jaya Indravarman IV về nước, để tạo ra một cuộc
tranh chấp vương quyền mới tại Chiêm Thành.
Cựu vương Jaya Indravarman IV khi trở về đã tập họp lại những người thân
tín cũ và đề nghị liên minh với vua đương nhiệm của xứ này là Sri Suryavarman để
chống lại vua Jaya Indravarman V. Vì kiêng nể uy tín của cựu vương, Sri
Suryavarman đã chấp nhận liên minh. Chiêm Thành rơi vào cảnh một nước ba vua.
Trong cuộc chiến tranh giành quyền lực này, phe của hai vua Jaya Indravarman IV
và Sri Suryavarman cuối cùng đã chiến thắng. Quân Panduranga tiến vào chiếm
đóng thành Vijaya. Vua Jaya Indravarman V bại trận bị giết.
Khi không còn thế lực đối địch từ Vijaya, vua Sri Suryavarman và Jaya
Indravarman IV lập tức trở mặt với nhau. Vua Sri Suryavarman đã chiếm luôn
thành thành Vijaya, với mong muốn làm vua toàn cõi Chiêm quốc. Jaya Indravarman
IV với lực lượng ít ỏi của mình cố gắng chiếm lấy thành trì nhưng thất bại. Cuối
cùng, Sri Suryavarman ra tay trừ khử luôn cả cựu vương Jaya Indravarman IV để
lên ngôi vua Chiêm Thành vào năm 1192. Cái giá cho sự thống nhất trở lại của nước
Chiêm Thành khá đắt khi mà toàn dân phải trải qua liên tiếp hàng loạt cuộc chiến
tranh đẫm máu. Bên cạnh đó, sự chia rẽ giữa các xứ Chiêm càng thêm sâu sắc, khủng
hoảng lòng tin giữa các tầng lớp nhân dân càng thêm trầm trọng.
Nắm giữ quyền lực sau thời kỳ đen tối, vua Sri Suryavarman không có nhiều
thời gian hòa bình để khôi phục lại đất nước. Khi biết tin Sri Suryavarman tự lập
làm vua toàn Chiêm Thành, vua Jayavarman VII tức giận cho rằng mình đã bị phản
bội. Kể từ năm 1193 trở đi, quân Chân Lạp liên tiếp xâm lấn nước Chiêm Thành.
Vua Sri Suryavarman một mặt lãnh đạo quân dân trường kỳ chiến đấu với địch mạnh,
một mặt cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ của Đại Việt để làm đối trọng. Năm 1194,
quân Chiêm Thành đã đánh bại một cuộc xâm lược lớn của Chân Lạp. Nhận thấy vị
trí Vijaya dễ bị quân Chân Lạp tấn công, Sri Suryavarman dời đô về xứ Amaravati
(Quảng Nam) để tránh mũi nhọn của giặc.
Những năm tiếp theo, Chiêm Thành tích cực khôi phục lại sản xuất nông
nghiệp, nhiều công trình thủy lợi được trú trọng thi công. Năm 1198, sứ giả
Chiêm Thành đến Đại Việt để cầu phong và dâng cống phẩm. Đến năm 1199, sứ Đại
Việt đã sang phong vương cho vua Sri Suryavarman. Tuy nhiên, Đại Việt dưới thời
vua Lý Cao Tông đang đà suy sụp đã không có bất kỳ hành động thiết thực nào để
giải cứu nước đã xưng thần khi họ gặp nguy nan. Vị vua thứ bảy của triều Lý chỉ
lo vui chơi hưởng lạc, bỏ mặc chính sự. Rốt cuộc nước Chiêm Thành vẫn chỉ một
mình chống đỡ sức mạnh của đế quốc Chân Lạp đang thời kỳ hưng thịnh nhất.
Năm 1203, một người chú của Sri Suryavarman là Dhanapatio Grama (Bố Điền)
đã phản lại đất nước, dẫn quân Chân Lạp tiến đánh Amaravati, chiếm lấy ngôi
vua. Dhanapatio Grama Sri sau đó trở thành “vua Chiêm Thành”, dưới quyền điều
khiển của vua Jayavarman VII nước Chân Lạp. Suryavarman bại trận đã đem cả gia
quyến và hạm đội của mình gồm 200 thuyền vượt biển bắc tiến, ghé vào cửa biển Cơ
La để cầu cứu Đại Việt. Tri châu Nghệ An là Đỗ Thanh và châu mục Phạm Diên tâu
bày về triều. Tại Thăng Long, vua Lý Cao Tông sai quan Thái phó Đàm Dĩ Mông
cùng Đỗ An đem quân vào kinh lý. Đàm Dĩ Mông vào nam, cùng thân tín dò hỏi mọi
việc. Đỗ An bàn rằng:
“Bố Trì [chỉ Sri
Suryavarman] có đến 200 chiếc thuyền, cái thằng lang sói dã tâm ấy, ta
không thể hoàn toàn tin nó được.
Ngạn ngữ có câu rằng :
Cái lỗ kiến mà làm vỡ đê,
Chút khói mà làm cháy nhà.
Nay bọn Bố Trì thì đông, chớ há
có phải riêng cái lỗ kiến, cái chút khói mà ta nói ấy đâu. Xin ông hãy xét kỹ”
Đàm Dĩ Mông đem lời ấy bàn lại với bọn Đỗ Thanh, Phạm Diên và bảo nên
phòng bị. Bọn Đỗ Thanh nghe qua cãi lại: “Kẻ kia gặp nạn mới sang cầu cứu ở
ta, ta nên đem lòng thành thực mà cứu giúp nhau. Nay ngược lại ta ngờ vực họ
hai lòng thì như vậy có đáng không?”
Đàm Dĩ Mông bấy giờ là một trong những trụ cột triều đình, công lao uy
vọng rất lớn. Vì vậy mà ông cũng sinh ra tự cao. Khi nghe Đỗ Thanh, Phạm Diên
nói trái ý mình, Đàm Dĩ Mông tức giận, dẫn quân bỏ về triều. Đỗ Thành và Phạm
Diên bấy giờ mới sợ hãi, bàn nhau rằng : “Bọn ta đã trái ý quan Phụ quốc
[tức Đàm Dĩ Mông], tất không thoát điều chẳng lành, chi bằng hãy bí mật đem
quân đánh Bố Trì, lấy đó làm kế vẹn toàn.”
Đỗ Thanh, Phạm Diên ngoài mặt thân thiện với Sri Suryavarman nhưng tìm
cơ hội đánh úp. Nhưng mưu ấy đã bị bại lộ, Sri Suryavarman nói với thuộc hạ rằng
: “Bọn ta gặp nạn mới đến cầu cứu ở nước lớn. Nước lớn đã không có cái điều
nghĩa thương xót mà trái lại còn muốn bắt tội làm tù nữa, đau đớn quá chừng.” Từ
đó hai bên hẹn nhau liên thủ, nhưng chực nhau đánh úp nhau. Đỗ Thanh và Phạm
Diên đề nghị đem thuyền chiến Đại Việt và Chiêm Thành buộc lại với nhau làm kế
liên hoàn chiến thuyền.
Sri Suryavarman cũng vẫn theo lời mà buộc thuyền với quân Đại Việt. Đến
đêm, lính giữ thuyền phía Đại Việt trễ nải, quân Chiêm phóng hỏa đốt thuyền rồi
đánh úp quân Đại Việt. Binh lính Đại Việt thuộc châu Nghệ An tan vỡ cả đội ngũ,
nhảy xuống nước chết hơn 200 người. Đỗ Thanh, Phạm Diên cũng đều bị giết chết.
Vua Sri Suryavarman nhân đó cướp bóc khắp nơi ở Nghệ An, giết hại nhân dân, vơ
vét của cải rồi đem đoàn quân của mình lên thuyền phiêu bạt đi đâu không rõ. Kể
từ sự kiện này trở đi, các vùng phía nam nước Đại Việt liên tục bị các toán cướp
biển người Chiêm cướp bóc.
Sự việc quân Đại Việt bất hòa để cho tàn quân vong quốc của Chiêm Thành
cướp phá Nghệ An thể hiện rõ bộ mặt yếu kém của cuối đời nhà Lý. Một khi tướng
sĩ không đồng lòng thì ngay cả một đạo quân lánh nạn cũng khiến cả một xứ quan
trọng như Nghệ An tan tác. Xét ra Đàm Dĩ Mông toan tính phòng bị khi quân đội
nước ngoài vào lãnh thổ nước mình là kế hợp tình hợp lý, nhưng khi cấp dưới
không nghe lời lại tự mình đem quân bỏ về là điều dở không nên làm. Còn bọn Đỗ
Thanh, Phạm Diên trước thì không có sự đề phòng của kẻ làm tướng, sau lại hành
xử gian trá và thiếu cẩn trọng. Hành động bất nhất của hai nhân vật này đã khiến
cõi nam của nước Đại Việt gặp họa. Việc này càng góp phần khiến xã hội Đại Việt
đầu thế kỷ 13 thêm khủng hoảng.
Sự thờ ơ của Đại Việt cũng khiến cho hy vọng phục quốc của Chiêm Thành
tiêu tan. Nước Chiêm Thành kể từ năm 1203 đã bị xóa sổ, chính thức trở thành một
tỉnh của Chân Lạp. Mặc dù Dhanapatio Grama được phong vương nhưng thực tế chỉ
là một quan cai trị của Chân Lạp. Mọi hành động của Dhanapatio Grama đều theo
chỉ thị của vua Jayavarman VII và quân đội Chân Lạp đã chiếm đóng toàn cõi đất
đai của Chiêm quốc.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét