1-TÀU XÂM LƯỢC VN-1979-Nguyên nhân & Mục tiêu
TÀU XÂM LƯỢC VIỆT NAM-1979:
1
NGUYÊN NHÂN VÀ MỤC TIÊU
Ngoại giao bóng bàn và các chuyến
đi bí mật của cố vấn Kissinger đã đưa đến sự bắt tay Mỹ – Trung năm 1972 tại Thượng
Hải làm thay đổi cục diện thế giới cũng như khu vực. Sự kiện này làm thay đổi hẳn
các tính toán của các bên trong ván bài Đông Dương. Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam
nên đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 để đổi lấy tác động
của Bắc Kinh lên chính sách của Hà Nội.
Trung Quốc muốn duy trì hai miền
Việt Nam trước quyết tâm thống nhất đất nước của Hà Nội để có một vùng đệm an ninh
cho biên giới phía Nam. Sự bắt tay Mỹ – Trung làm Liên Xô buộc phải tăng cường
quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm đồng minh trong khi Hà Nội cần nhiều viện trợ
quân sự trong bối cảnh Trung Quốc đang đe dọa cắt viện trợ để buộc Việt Nam
theo ý mình.
Tuy nhiên, Việt Nam thống nhất năm
1975 đã làm đảo lộn tính toán của các nước lớn. Trong khi Việt Nam hân hoan với
viễn cảnh đất nước bước vào một kỷ nguyên mới vĩnh viễn độc lập, tự do thì những
bóng mây của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã tích tụ. Trung Quốc không
cam tâm để Việt Nam tuột khỏi quỹ đạo của mình. Một thế trận gọng kìm đã được
giương lên từ cả biên giới phía Bắc và phía Nam. Việt Nam và Trung Quốc tố cáo
nhau về các cuộc xâm phạm biên giới, dời trụ mốc, lấn chiếm lãnh thổ trên đất
liền, về vấn đề người Hoa ở phía Bắc. Khmer Đỏ với sự giúp đỡ của Trung Quốc xâm
lấn lãnh thổ Việt Nam ở phía Nam. Cuộc tiến công của bộ đội tình nguyện Việt
Nam và các lực lượng Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia vào Phnom Penh đầu năm
1979 đã làm kế hoạch của Bắc Kinh có nguy cơ phá sản. Trong thời điểm quân chủ
lực Việt Nam chưa rút về nước, Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh biên giới
phía Bắc.
Cuộc chiến tranh này kéo dài suốt
hơn 10 năm (1979-1990), để lại nhiều hậu quả cho phía Việt Nam. Nó cũng là đề tài
bất tận cho các sử gia, các nhà phân tích và bình luận quan hệ quốc tế khai thác.
Rất nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ hoặc có những đánh giá khác nhau. Tại sao
Trung Quốc đánh Việt Nam? Cuộc chiến tranh này có thể tránh được không? Số lượng
quân tham chiến mỗi bên? Ai thắng ai bại và số lượng tổn thất? Tại sao Trung Quốc
lại chọn thời điểm tháng 2 năm 1979?…Các tài liệu chiến tranh đều không được
hai bên giải mật. Phần lớn các bài viết, nghiên cứu là từ các tác giả nước ngoài.
Trong phần này chúng tôi chỉ tập trung vào những nội dung chính liên quan đến
tiến trình giải quyết biên giới lãnh thổ và trên cơ sở các tài liệu công khai.
MỤC TIÊU CHIẾN TRANH CỦA
TRUNG QUỐC
Cuộc chiến tranh này là do Trung
Quốc phát động nên câu hỏi đầu tiên là Trung Quốc làm nhằm mục tiêu gì? Đâu là
mục tiêu chính?
Phân tích Tuyên bố chiến tranh của
Chính phủ Trung Quốc ngày 18/2/1979 và các phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc
cho thấy sự sắp xếp các mục tiêu của Trung Quốc theo một trật tự: biên giới, chính
trị, quân sự, kinh tế.
Mục
tiêu biên giới
Tuyên bố chiến tranh của Chính
phủ Trung Quốc được Tân Hoa xã phát hành ngày 17/2/1979 nêu rõ:
“Chỉ trong vòng sáu tháng qua người
Việt Nam đã xâm nhập có vũ trang 700 lần, giết hại và làm bị thương hơn 300 lính
biên phòng và dân sự Trung Hoa. Bởi chính những hành động xâm lược điên cuồng đó
nhà cầm quyền Việt Nam đã cố ý kích động và tăng căng thẳng dọc theo biên giới
phía Nam Trung Hoa và ngăn cản chương trình canh tân xã hội chủ nghĩa Trung
Hoa. Hành động xâm lược đó nếu không bị ngăn chặn, chắc chắn sẽ làm nguy hiểm
cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á, và ngay cả toàn châu Á.
Lập trường kiên định của Chính
phủ và nhân dân Trung Hoa là “chúng tôi sẽ không tấn công trừ phi chúng tôi bị
tấn công, – nếu chúng tôi bị tấn công, chắc chắn chúng tôi sẽ phản công”. Các đạo
quân biên phòng Trung Hoa hoàn toàn chính đáng để đứng dậy phản công khi họ vượt
quá sự chịu đựng. Chúng tôi muốn xây dựng đất nước và cần một môi trường quốc tế
hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh.
Chúng tôi không cần một tấc (inch) đất nào của
người Việt Nam nhưng chúng tôi không muốn sự xâm nhập phá hoại vào lãnh thổ
Trung Hoa. Tất cả điều chúng tôi muốn là một biên giới hòa bình và ổn định. Sau
khi đánh trả đích đáng những kẻ xâm lược Việt Nam, lực lượng biên phòng Trung
Hoa sẽ nghiêm chỉnh bảo vệ biên giới nước mình. Chúng tôi tin rằng lập trường của
chúng tôi sẽ được sự hưởng ứng, cảm thông và hậu thuẫn của các nước và nhân dân
yêu chuộng hòa bình và yểm trợ công lý ”.[1]
Theo tuyên bố này, hành động của
Trung Quốc được biện minh bởi hai nguyên nhân: tranh chấp lãnh thổ và bảo vệ người
Hoa. Mục tiêu nhất quán và cơ bản của chiến dịch năm 1979 là Phản kích tự vệ (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến),
chống lại sự “tập trung một lực lượng vũ trang đông đảo dọc biên giới Việt –
Trung và liên tiếp xâm nhập vào trong lãnh thổ Trung Hoa” để “có một đường biên
giới hòa bình và ổn định” theo ý Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, mục tiêu cuộc
chiến do Trung Quốc phát động là: “tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của
Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam,
kích động bạo loạn”.[2]
Drew Middleton, ký giả kỳ cựu của New
York Times trên bài nhận định của mình ngày 26/2/1979 đã nhận định cuộc
chiến mà ông Đặng nói có thể giống một cuộc chiến tranh mà Cộng sản Trung Hoa đã
phát động năm 1962-1963 trên biên giới phía Bắc Ấn Độ để thực hiện điều mà Cộng
sản Trung Hoa mong muốn là thiết lập một làn ranh giới mới mà họ cho rằng đó là
đường biên giới của họ. Nhận định này sau này đã được chứng minh chính xác như
một mục tiêu đầu tiên trong các mục tiêu Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến.
Tuy tuyên bố không xâm phạm tấc đất
nào của Việt Nam nhưng diễn biến chiến tranh cho thấy Trung Quốc chủ ý thay đổi
biên giới có lợi cho mình, nhất là tại những nơi Công ước Pháp – Thanh chưa giải
quyết triệt để, hợp pháp hóa các vùng đất người Hoa đã sinh sống sang phía Việt
Nam, chiếm đóng và khống chế một số điểm cao, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm
phán đồng thời nhằm đánh bại ý chí của Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và buộc rút quân khỏi Campuchia.
Để đạt được mục tiêu của mình,
Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh xung đột biên giới như một trong ba mũi giáp công
gây sức ép với Việt Nam sau 1975: Pol Pot tấn công ở Tây Nam; xung đột biên giới
và vấn đề Hoa kiều; cắt viện trợ, bỏ dở các công trình hợp tác và triệu hồi
chuyên gia từ ngày 3/7/1978.
Tài liệu Bộ Ngoại giao Việt Nam
cho biết: “Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc năm
1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười
lần”.
Theo Nguyễn Ngọc Minh,[3] từ 1974 tới tháng 1/1979, Bắc Kinh đã
gây ra 4.563 vụ xâm lấn biên giới, gây hận thù dân tộc (1974: 179 vụ; 1975: 294
vụ; 1976: 812 vụ; 1977: 873 vụ; 1978: 2175 vụ; 1979: trước ngày 17/2/1979, 230
vụ). Tài liệu của Huỳnh Văn Trình cho biết: năm 1974 – 179 vụ, trong đó có vụ rất
nghiêm trọng xảy ra vào 01/6/1974 (500 lính và dân binh Trung Quốc bao vây chiến
sĩ biên phòng Việt Nam suốt 24 giờ ở Phia Un (Trà Lĩnh – Cao Bằng) và vào
16/6/1974 (gây ẩu đả ở khu vực Phai Luông – Sóc Giang, Cao Bằng; dùng hàng ngàn
người gây nên trận “mưa đá” làm hàng chục dân Việt Nam bị trọng thương); năm
1975 – 294 vụ (gấp đôi năm 1974); năm 1976 – 812 vụ (gấp 4 lần năm 1974), trong
đó 10 lần dùng lực lượng từ 1000 đến 3000 người bao vây chiến sĩ biên phòng, 3
lần cướp giật vũ khí, gây xô xát … làm cho số bị thương của Việt Nam lên đến
300 người; năm 1977 – 873 vụ, trong đó 25 lần dùng lực lượng đông người với
hung khí (búa, xà beng, súng cao su bắn tên sắt) và hành vi côn đồ gây thương
tích cho 413 người Việt Nam, bắt đi 17 người (trong đó 15 chiến sĩ biên phòng);
năm 1978 – 2175 vụ (gần gấp 3 lần năm 1977) với 24 vụ nổ súng làm chết và bị thương
72 dân và chiến sĩ biên phòng Việt Nam.[4]
Tài liệu của Trung Quốc cho rằng
“từ năm 1975 đến 16 tháng 2 năm 1979, trước ngày Trung Quốc buộc phải thực hiện
hành động đánh trả để tự vệ, nhà cầm quyền Việt Nam liên tục gây ra khiêu khích
vũ trang và liên tiếp gây ra các sự kiện xâm lược với số vụ ngày càng tăng. Số
liệu các sự việc đó như sau: năm 1975: 439 vụ; năm 1976: 986 vụ; năm 1977: 572
vụ; năm 1978: 1108 vụ; năm 1979 (tính đến ngày 16 tháng 2 năm 1979): 129 vụ.”
Khó có thể đánh giá con số nào là
chính xác và sự thực ai là bên gây hấn, nước nhỏ hay nước lớn, do các tài liệu
chính thức chưa được giải mật. Song một điều hiển nhiên chúng chứng minh tình hình
biên giới đã căng thẳng gấp nhiều lần so với trước và đã xảy ra trước khi quân
tình nguyện Việt Nam tiến sang Campuchia.
Vấn đề người Hoa cũng bị cuốn hút
vào trò chơi chính trị, gây bất ổn trên biên giới. Nguyên nhân chính là sự khác
biệt trong chính sách của hai nước đối với bộ phân dân cư này. Trung Quốc coi đó
là Hoa kiều ở Việt Nam còn Việt Nam thì có chính sách coi đó là người Việt gốc
Hoa, một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Do những nguyên nhân lịch sử đến
năm 1954, Hoa kiều cư trú tại Việt Nam ước chừng hơn 1,5 triệu người, trong đó
khoảng 80% Hoa kiều tập trung ở miền Nam Việt Nam. Chỉ tính số người Hoa sinh sống
ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã chiếm khoảng trên 50% tổng số Hoa kiều ở Việt Nam. Hoa
kiều ở miền Bắc có khoảng 300 ngàn người, phần lớn tập trung ở tỉnh Quảng Ninh
180 ngàn người, thành phố Hải Phòng hơn 50 ngàn người, và Hà Nội.
Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam
và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng
Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong vòng
20 năm (1955-1975), người Hoa ở miền Bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ
như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền Nam, từ năm 1956 dưới chính quyền
Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong
việc làm ăn sinh sống.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền
Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận
năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền Bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch
sử về người Việt gốc Hoa ở miền Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam đã sát cánh cùng
các dân tộc anh em khác và có nhiều đóng góp trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây
dựng CNXH ở miền Bắc.
Việt Nam đề xuất đàm phán vì vấn
đề người Hoa rất dễ giải quyết trên tinh thần những người đã vào quốc tịch Việt
Nam, đã là một bộ phận người Việt gốc Hoa, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ
của công dân Việt Nam yên tâm ở lại, có một cuộc sống bình thường, không lo lắng,
cùng với toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam và cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh cho chính họ. Những người đã vào
quốc tịch Việt Nam và những người chưa vào quốc tịch Việt Nam nay muốn rời Việt
Nam sẽ được cho phép bởi chính quyền Việt Nam sau khi họ thực hiện đầy đủ các
thủ tục xuất cảnh và được phép mang theo đầy đủ tài sản. Những người không phải
quốc tịch Việt Nam mong muốn ở lại Việt Nam sẽ được đối xử như những người nước
ngoài định cư khác.[5]
Ngược lại, phía Trung Quốc phủ
nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ờ miền nam Việt Nam đã vào quốc
tịch Nam Việt Nam, cho rằng chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm bắt người
Hoa vào quốc tịch Việt Nam là phản động. Bắc Kinh cho rằng vấn đề người Hoa ở
miền Nam Việt Nam, chiếm 90% người Hoa ở Việt Nam phải được giải quyết bằng
tham vấn hai bên sau khi Việt Nam thống nhất.[6] Trong khi hai bên chưa thống nhất thì
người Việt gốc Hoa tại Nam Việt Nam dù đã vào quốc tịch Việt Nam từ 1956 vẫn được
coi là kiều dân Trung Quốc. Bắc Kinh đã triển khai lập các tổ chức “Hoa kiều hòa
bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh
niên chủ nghĩa Mac – Lenin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống
nhất Hoa kiều”..,v.v.. mà không có sự đồng ý của Hà Nội.[7] Các tổ chức này tuyên truyền, nhập
khẩu cách mạng văn hóa. Sau năm 1972, khi Trung-Mỹ bắt tay, người Việt Nam cảm
thấy cuộc chiến đấu chống Mỹ của mình bị phản bội nên bắt đầu nhìn nhận những tổ
chức này dưới con mắt ngờ vực. Các tổ chức này đã có những hoạt động chống lại
các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc
đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc
Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc.
Sau năm 1975, một số chi bộ Hoa
Kiều ở Sài Gòn Chợ Lớn còn có vũ trang.[8] Để đối phó với sức ép chiến tranh biên
giới Tây Nam, Việt Nam siết chặt chính sách một quốc tịch. Các hoạt động in tiền
giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng trong một bộ phận tư sản mại bản, phá kế hoạch
ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam là nguyên nhân
Việt Nam tiến hành cuộc “cải tạo tư sản công thương nghiệp” năm 1978. Nó tác động
đến hàng loạt các nhà tư sản trong đó có nhiều người Việt gốc Hoa.[9] Truyền thông Trung Quốc vu cáo Việt
Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, gây ra vấn đề “nạn kiều” cưỡng bức
người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc. Hai tàu của Trung Quốc có tên
Minh Hoa (Minghua) và Trường Lý (Changli) không có phép của Việt Nam đã được đưa
ngay vào cảng Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để đón người nhập cư và gây áp
lực với chính quyền sở tại.
Việt Nam cáo buộc Trung Quốc kích
động quần chúng người Việt gốc Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng
hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét
người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc.
Đây là động thái gây xáo trộn về chính
trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, như họ đã làm ở một số nước Đông Nam châu Á và
Nam Á trước kia, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo
quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.[10] Tại biên giới phía Bắc, Trung Quốc
tổ chức cho người Việt gốc Hoa vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại,
gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành
hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương. Chỉ riêng trong ngày
28/7/1978, đã có tới 4.000 người bị mắc kẹt tại biên giới do công an Trung Quốc
không muốn đón “những khúc ruột ngoài ngàn dặm” khi họ không có giấy nhập cảnh
của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, còn công an Việt Nam chỉ đón nhận những người
có quốc tịch Việt Nam.
Đáng chú ý, trong khi phản ứng với
chính sách một quốc tịch của Việt Nam thì Trung Quốc lại có một bước đi trái ngược
và dứt khoát liên quan đến Hoa kiều – “đội quân thứ năm” của Trung Quốc ở Đông
Nam Á và ở nước ngoài. Hoa kiều được khuyến khích nhập quốc tịch nước sở tại.
Trung Quốc thôi nhấn mạnh quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước
này với lục địa; người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được
coi là công dân Trung Quốc; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng
người Hoa[11]…. Những chính sách nêu trên nhằm dẹp bớt
những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc tồn tại lâu đời nay,
tranh thủ sự ủng hộ của các nước này khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, chống
“tiểu bá” Việt Nam và “đại bá” Liên Xô.[12] Trung Quốc cũng có chính sách phân
biệt giữa Việt Nam và Campuchia. Bắc Kinh đã không nói gì ngay cả khi Pol Pot
thanh lọc người gốc Hoa. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa
và dân Campuchia đã chạy trốn sang Việt Nam. Dưới thời Polpot, đồng minh của
Trung Quốc, thống trị Campuchia, có tới hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Khmer Đỏ bức hại.
Song chính quyền Trung Quốc đã không lên án hành động diệt chủng này. Trung Quốc
lại lấy việc cứu vớt Khmer Đỏ diệt chủng làm lý do để tấn công Việt Nam.
Trung Quốc cáo buộc “đến cuối năm
1978, đã có 200 ngàn Hoa kiều và công dân Việt Nam gốc Hoa bị xua đuổi về Trung
Quốc, đã buộc phía Trung Quốc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về các mặt
kinh tế và xã hội vv … Các cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề người
Hoa bế tắc. Ngày 8/8/1978, Bắc Kinh tố cáo Hà Nội đang vi phạm Thỏa thuận 1955
giữa hai chính phủ về tình trạng Hoa Kiều.
Cần kinh phí hỗ trợ Hoa kiều hồi
hương là lý do để lần đầu tiên, tháng 5 năm 1978, Trung Quốc tuyên bố cắt một
phần viện trợ (72 trong số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt
Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội
đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết
chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Người Hoa ở Việt Nam ít nhất cũng
trên 20 năm, được tạo điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam, có nghĩa vụ tôn trọng
pháp luật sở tại. Chính tài liệu của Trung Quốc cũng thừa nhận có bộ phận người
Việt gốc Hoa nhưng họ lại đặt yếu tố Hoa Kiều lên cao hơn, đòi hỏi có quyền chi
phối quyền lợi của những người này bỏ qua chính quyền địa phương. Bắc Kinh cố tình
tạo hình ảnh Hà Nội bài Hoa, vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của
Trung Quốc. Ngược lại người Việt Nam tức giận vì công việc nội bộ bị can thiệp
và sự “phản bội đồng chí” của Trung Quốc khi bắt tay với Mỹ. Việc gần 20 vạn người
Việt gốc Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc đã đưa đến cho Việt
Nam những khó khăn gấp bội trong cùng thời điểm phải đối phó với những thiệt hại
nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm
qua gây ra cũng như sự cắt đứt viện trợ từ Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới
phía Bắc, rất nhiều tù binh bị Việt Nam bắt giữ là người Hoa ở Việt Nam đi
Trung Quốc. Họ đã được chọn lựa đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng
núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn
vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt
Nam vì đã làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục,
tập quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức,
tình hình.
Các nghiên cứu quốc tế khác hướng
sự chú ý tới các mục tiêu khác không được viết rõ trong Tuyên bố chiến tranh của
Trung Quốc hơn là mục tiêu biên giới lãnh thổ.
Theo Robert D. Mcfaddenm đó là
các nguyên nhân sau:
Việc Cộng sản Việt Nam nghiêng về
phía Liên Xô làm tăng lo sợ cho Trung Quốc.
Việt Nam đánh tư sản mại bản xua
đuổi 1,2 triệu người Việt gốc Hoa đã khiến Cộng sản Trung Hoa có lý lẽ tấn công.
Cuộc tranh cãi chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Cộng sản Việt Nam xâm lăng
Campuchia, một nước đàn em do Cộng sản Trung Hoa đỡ đầu.
Womack lập luận rằng các vấn đề đã
dẫn đến cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam bao gồm, “liên minh của Việt Nam
với Liên Xô, cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Campuchia trong tháng 12 năm 1978,
sự ngược đãi và trục xuất người gốc Hoa của Việt Nam, và các tranh cãi về lãnh
thổ”.[13]
Như vậy, ngoài mục tiêu biên giới,
chúng ta có thể xem xét đến các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của cuộc
chiến biên giới 1979 mà Trung Quốc hướng tới.
Mục tiêu chính trị là buộc
Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot và cải thiện
được quan hệ với Mỹ, tạo điều kiện xuất hiện như một cường quốc thế giới, khống
chế tại Châu Á và chứng minh Liên Xô không phải là một đồng minh đáng tin cậy.[14]
Bắc Kinh rõ ràng muốn dạy cho Việt
Nam một bài học vì đã xâm lược Campuchia, đồng minh của Trung Quốc. Hai ngày
sau khi quân tình nguyện Việt Nam vào Phnom Penh, Nhân Dân Nhật báo đăng xã luận
cảnh cáo rằng “sự chiếm đoạt Phnom Penh bởi Việt Nam không có nghĩa là kết thúc
mà đúng ra là sự khởi đầu chiến tranh”.[15] “Bắc Kinh đã nhìn biến cố đó (Việt
Nam đưa quân vào Campuchia) không phải với tư cách giải phóng nhân dân
Campuchia khỏi nạn diệt chủng, mà nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt
Nam từ năm 1930 về một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội”.[16] Nhân Dân Nhật báo liên tục đưa ra các
bài xã luận: “Hà Nội đang theo đuổi một chính sách bành trướng khu vực, thiết lập
một Liên bang Ðông Dương, dưới sự che chở hay đồng lõa của đế quốc xã hội chủ
nghĩa Nga Xô”.[17]
Tại họp báo trong chuyến thăm
Bangkok tháng 11/1978, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc “sẽ quyết
định phương cách đối phó với chính sách bá quyền khu vực của Việt Nam, tùy thuộc
vào việc Hà Nội thực hiện đến đâu cuộc xâm lược của nó đối với Campuchia”.[18] Tại Washington, ngày 31/01/1979, Đặng
cảnh báo một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam có thể xảy ra do Việt
Nam chiếm đóng Campuchia và những căng thẳng trên biên giới Việt-Trung. Trên đường
về qua Tokyo, Đặng tuyên bố cần phải dạy Việt Nam một bài học.[19] Herbert S. Yee bình luận “Một trong
các mục tiêu chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi
Campuchia và Lào và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm
suy yếu năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía
Trung Quốc hy vọng rằng “với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu
phương phòng vệ yếu kém, và việc tiếp liệu của họ bị thiếu thốn”, Việt Nam sẽ bị
“sa vào trong một vũng lầy” tại Campuchia. Mục tiêu này của Trung Quốc được xác
nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng du kích
lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Campuchia khi biên giới phía
bắc của Việt Nam chịu cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc.
Sự vắng bóng mục tiêu được che dấu
này của Trung Quốc trong bản tuyên bố “hoàn kích tự vệ” của Bắc Kinh hiển nhiên
không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính toán. Nó có thể chủ ý dành
cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội ra khỏi Campuchia mà không bị mất
mặt; và không cung cấp cho Moskva một duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố
cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam) để can thiệp nhân danh
Việt Nam.[20] Tuy nhiên, nếu so sánh mục tiêu biên
giới và mục tiêu buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia thì mục tiêu biên giới vẫn
là chủ đạo khi kế hoạch đánh Việt Nam đã được chuẩn bị từ trước khi bộ đội Việt
Nam vượt biên giới theo lời kêu gọi của Chính phủ cách mạng Campuchia để cứu những
người anh em khỏi nạn diệt chủng.
Dạy Việt Nam một bài học, theo
Trung Quốc, còn do Việt Nam xích lại gần Liên Xô, kẻ thù số một của Trung Quốc,
hơn cả Mỹ. Nếu Việt Nam coi Thông cáo Thượng Hải năm 1972 là sự quay lưng của
người anh lớn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của mình,[21] thì Trung Quốc coi Hiệp ước hữu nghị
và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 03/11/1978 là sự phản bội của đứa
em với vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới của mình, là sự bắt tay giữa đại bá
Xô-viết và tiểu bá phương Nam. Điều 6 của Hiệp ước Việt – Xô quy định: “Trong
trường hợp một bên bị tấn công hay bị đe dọa tấn công, hai bên ký kết Hiệp ước
sẽ ngay lập tức tham khảo ý kiến lẫn nhau với quan điểm nhằm loại bỏ mối đe dọa
đó, và sẽ áp dụng biện pháp thích hợp và hiệu quả để bảo đảm hòa bình và an
ninh của hai nước”. Hiệp ước này làm cả Mỹ và Trung Quốc không hài lòng vì lo sợ
Liên Xô mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á. Khả năng Liên Xô sử dụng căn cứ Cam
Ranh để kiềm chế Mỹ và Trung Quốc cũng gây lo ngại. Thông cáo báo chí chung
Trung-Mỹ ngày 01/01/1979 có đoạn: “Không bên nào tìm kiếm bá quyền tại châu
Á-Thái Bình dương hoặc bất kỳ khu vực nào của thế giới và mỗi bên sẽ chống lại
những cố gắng của bất cứ nước nào hay nhóm nước nào nhằm xác lập bá quyền”.[22]
Ngày 05/11/1978, khi thăm các nước
ASEAN, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Hiệp ước Việt – Xô là mối de dọa đối với các nước
ASEAN và kêu gọi thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc
và khối ASEAN. Đặng Tiểu Bình cũng công khai ý định dùng biện pháp quân sự đối
phó với Việt Nam. Một trong những mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc lúc đó
là hạ thấp vai trò của Liên Xô, khẳng định trung tâm nước lớn, các nước nhỏ phải
thần phục. Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để “trận này nhất định
phải đánh” là: “Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên
quan đến tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến
cục diện thế giới” và “nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở
nên kiêu ngạo, thúc đẩy phương Bắc lấn tới” trong khi “Liên Xô đã có mặt ở
Afghanistan, Iran và tiếp đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng
ta từ phía Đông, do vậy, chúng ta cần phải đánh Việt Nam”[23].
Đánh Việt Nam cũng là nước cờ của
Bắc Kinh giảm thiểu khả năng bị kẹp giữa hai gọng kìm ảnh hưởng của Liên Xô, một
từ biên giới Xô – Trung, hai từ biên giới Việt – Trung thông qua vai trò của Việt
Nam, nước mới gia nhập câu lạc bộ Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM) do Liên
Xô đứng đầu. Bruce Elleman nhận định “một trong những mục tiêu ngoại giao quan
trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm
bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng,
chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moskva
không tích cực can thiệp, vì vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước
quân sự Xô – Việt … Trung Quốc đã giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách
giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô
và Việt Nam.[24] Đánh Việt Nam là nước cờ giải tỏa mối
lo sợ vĩnh cửu về một sự bao vây chiến lược với Trung Quốc.
Đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ khẳng
định được với Mỹ không sợ Liên Xô, sẵn sàng đoạn tuyện với hệ thống XHCN, hợp tác
chặt chẽ với Mỹ chống Liên Xô. Đánh Việt Nam là một món quà cho Mỹ, mong muốn
phát triển quan hệ với Mỹ.[25]
Mục tiêu quân sự: tiêu diệt
một bộ phận chính quy của Việt Nam, kéo các sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ
Campuchia về vào các “cối xay thịt” để trừng phạt. Cuộc tấn công cũng để làm sáng
tỏ nhu cầu hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Mục tiêu kinh tế: làm kiệt
quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc.
Mục tiêu đối nội: Tấn công Việt
Nam để chuyển hướng chú ý của dư luận khỏi tình trạng đấu đá nội bộ Trung Quốc,
tạo cơ hội thúc đẩy 4 hiện đại hóa trong đó hiện đại hóa quân đội là quan trọng,
Đối với cá nhân ông Đặng Tiểu Bình, đánh Việt Nam là cách để củng cố quyền lực
mới giành lại trong nội bộ Trung Quốc. Bề ngoài đây là cuộc chiến tranh giữa
hai nước láng giềng nhưng bên trong nó còn phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ,
tranh chấp phức tạp giữa lợi ích quốc gia và ý thức hệ. Theo Thẩm Thính Tuyết,[26] Đặng Tiểu Bình đưa ra ba nguyên nhân
đánh Việt Nam: Một là, để xây dựng một Mặt trận quốc tế thống nhất chống Liên Xô.
Hai là, để xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc. Ba là, để thử nghiệm sức chiến đấu
của Giải phóng quân vốn đã rệu rã sau 10 năm trải qua Đại cách mạng văn hóa
(1966-1976).
Tổng kết các nhận định trái chiều
trên có thể thấy về thực chất, đây là cuộc chiến nhằm hợp pháp hóa tranh chấp lãnh
thổ biên giới, và nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích quốc gia và chiến lược
quốc tế của Bắc Kinh.
Nếu so sánh xung đột biên giới
Việt-Trung 1979 với chiến tranh biên giới Xô – Trung 1969 ta thấy có những điểm
khá tương đồng. Xung đột tháng 3 năm 1969 là cần thiết với Chủ tịch Mao Trạch Đông
khi ông tỏ rõ ý định đoạn tuyện hẳn với Liên Xô, tìm cách ve vãn Mỹ và đồng
minh, củng cố ưu thế lãnh đạo trước Đại hội IX Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng
4 năm 1969, đồng thời sử dụng xung đột để tác động tới Đại Cách mạng Văn hóa
trong nội địa. Kết quả cuối cùng của biến cố 1969 chính là sự bắt tay Mỹ-Trung
tại Thượng Hải 3 năm sau. Cuộc chiến biên giới Việt – Trung cho Đặng Tiểu Bình
cơ hội thu hút đầu tư Hoa Kỳ, hiện đại hóa quân đội và củng cố quyền lực trong
nước. Kết quả sau chiến tranh là sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Mỹ và Trung
Quốc để ngăn chặn Liên Xô. Trong cả hai sự kiện này Trung Quốc đều tuyên truyền
chỉ có tính “tự vệ” song thực tế là bên chủ động nổ súng tấn công trước, kết thúc
trong thời gian ngắn đủ để có được kết quả chính trị. Trong chiến tranh biên giới
Việt – Trung, mục tiêu quan trọng nhất là hợp thức hóa các khu vực tranh chấp
biên giới và nếu có thời cơ mới tiến sâu. Điều này lý giải, Trung Quốc chủ động
rút quân ngày 5/3/1979 trước khi Việt Nam điều đủ lực lượng tinh nhuệ lên biên
giới và tổng động viên cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược.
MỤC TIÊU CỦA VIỆT NAM
Về phía Việt Nam, mục tiêu cao
nhất là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, tính độc lập trong đường lối đối ngoại.
Mục tiêu này thể hiện rõ trong Tuyên bố đáp lại của Chính phủ CHXHCN Việt Nam
ngày 18/2/1979: “Trung Quốc đã mở ra một cuộc chiến tranh xâm lược trên suốt
chiều dài biên giới của nước ta. Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, những kẻ cầm
quyền Trung Quốc đã động viên một lực lượng vũ trang lớn lao gồm cả lính bộ
binh, pháo binh và lực lượng xe bọc sắt mở ra một cuộc chiến xâm lược vào lãnh
thổ nước ta dọc theo biên giới từ Phong Thổ và Lai Châu đến thành phố Móng Cái,
Quảng Ninh. Chúng dùng pháo binh tầm xa bắn bừa bãi vào các thành phố, thị trấn,
các khu dân cư và làng xã đông đúc nhằm mở đường cho các đơn vị xe bọc sắt và bộ
binh để mở những cuộc tấn công sâu vào lãnh thổ nước ta. …
Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược
Trung Quốc tại biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã bắt đầu. Các lực lượng vũ
trang và nhân dân các dân tộc các vùng biên giới đang gìn giữ truyền thống anh
hùng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược
Trung Quốc từ ngay trận đánh đầu tiên trên tuyến đầu của tổ quốc”.
Các mục tiêu chiến lược của Việt
Nam, trong khi it được nghiên cứu và phát biểu hơn, có thể gồm:
Bảo vệ
biên giới lãnh thổ phía Bắc.
Tiếp tục giúp đỡ Campuchia truy
quét Pol Pot và bảo vệ biên giới Tây Nam.
Tranh thủ sự ủng hộ của dư luận
thế giới chống sự xâm lược của Trung Quốc.
Tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô
theo các nghĩa vụ cam kết của Hiệp ước Việt-Xô 1978 ở mức có thể (các cố vấn, tái
tiếp tế các vũ khí then chốt, và sự hiện diện của hải quân) mà không làm khó
cho Liên Xô về khả năng can thiệp quân sự trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh quy
mô lớn.
Đánh bại về mặt chiến thuật lực
lượng của Trung Quốc mà vẫn bảo toàn được các lực lượng chính quy, không phải rút
quân từ Campuchia hay phải tổng động viên sâu rộng, gây tốn kém.[27]
Cuộc chiến 1979 được gọi bằng
nhiều tên gọi khác nhau tùy theo diễn biến và mục tiêu phía Trung Quốc đặt ra.
Lúc đầu nó được gọi là cuộc chiến ‘dạy cho Việt Nam một bài học”, là “phản kích
tự vệ”, sau đó lại đổi thành “đánh trả”, dù nghĩa đó dùng cho phía Việt Nam mới
tương xứng. Việt Nam xác định Trung Quốc “phát động chiến tranh xâm lược Việt
Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km”.[28]Phương Tây gọi nó là cuộc chiến giữa những
người anh em đỏ. Song cái tên đúng nghĩa về cả không gian và thời gian của cuộc
chiến vẫn là chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Cuộc chiến này được
Trung Quốc coi là “phản kích tự vệ” các hành động xâm lược của Việt Nam, một nước
có diện tích, số dân và tiềm lực kinh tế nhỏ hơn Trung Quốc hàng chục, hàng trăm
lần.
Cuộc chiến 1979 xảy ra ngay sau
khi Việt Nam đưa quân tình nguyện sang Campuchia để thực hiện quyền tự vệ chính
đáng và cứu dân tộc anh em khỏi họa diệt chủng. Phía Trung Quốc hoàn toàn chủ động
lựa chọn thời điểm tấn công, quy mô chiến tranh và chỉ phải đối phó với lực lượng
dân quân du lích của Việt Nam trong khi quân chính quy Việt Nam còn ở phía Nam.
Trên góc độ chính trị, quân sự, rõ ràng Việt Nam không có lý do gì để “xâm lược
Trung Quốc”, tự tạo ra thế bị ép hai mặt, khó tránh khỏi diệt vong.
Phía Việt Nam cho rằng đây là một
cuộc xâm lược, sử dụng lực lượng lớn quân vũ trang chính quy, vào sâu lãnh thổ
Việt Nam hàng chục km. Cuộc chiến đấu của Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh
vệ quốc, thực hiện quyền tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc.
Đó cũng là suy nghĩ, đánh giá chung của đa số các bình luận quốc tế.
Nhà phân tích quân sự người Anh –
Thiếu Tướng Shelford Bidwell, chỉ ra “mô hình dạy một bài học” của Trung Quốc lần
đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 33 ngày năm 1962.
“Cuộc động binh này được thiết kế bề ngoài để dạy cho Ấn Độ một bài học cho sự ủng
hộ được thấy rõ của Ấn Độ dành cho Dalai Lama và cuộc kháng chiến của Tây Tạng. Cuộc
tranh chấp biên giới đã là một duyên cớ thuận tiện được khai thác bởi phía
Trung Quốc để phóng ra một cuộc xâm lăng đột ngột và chóng vánh (đã làm cho Ấn Độ
hoàn toàn bị bất ngờ), gây ra một sự thất trận cục bộ đáng xấu hổ và sau đó thực
hiện một màn triệt thoái đơn phương hào hiệp được sắp đặt để nhấn mạnh đến sự bất
lực của quốc gia nạn nhân.
Cũng với cùng “mô hình dạy một bài
học” này mà phía Trung Quốc đã quyết định làm lại đối với Việt Nam. Bất hạnh
thay hay nói cách khác, họ chung cuộc đã học được vài bài học quân sự cho chính
họ — bài học đầu tiên trong đó là nhu cầu hiện đại hóa quân đội của họ”.[29] Gerald Segal kết luận “những
tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính
họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không
bao giờ có cơ hội thành công”.[30]
Hai lý do chính liên quan đến biên
giới mà Trung Quốc đưa ra trong thông cáo chiến tranh (vi phạm biên giới và bài
xích người Hoa) để biện minh cho hành động phản kích tự vệ đều khó thuyết phục.
Giữa các nước láng giềng có biên
giới chung thì những tranh cãi về biên giới lãnh thổ là khó tránh khỏi. Các
tranh chấp biên giới này, theo luật quốc tế, hoàn toàn có thể giải quyết
hòa bình thông qua thương lượng đàm phán mà không cần tới sử dụng vũ lực, sử dụng
chiến tranh. Trung Quốc đã đưa quân vượt biên giới đánh sang đất Việt Nam thì
không thể gọi là “phản kích tự vệ”. Sự kiện này phải được xem xét theo đúng định
nghĩa “xâm lược” trong luật quốc tế.
Ý đồ đã được tuyên bố của Trung
Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến
tranh thành một “hành động nước lớn tự cho mình quyền bắt nạt nước bé”, một “hành
động trả thù vô cớ”, một điều đi ngược với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của
luật quốc tế, vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế cũng như 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc
vẫn được coi là một bên sáng lập.
VIỆT LONG
[1]Statement by Xinhua News Agency upon Authorization of
the Government of PRC on February 17, 1979, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118480
[3]Nguyễn Ngọc Minh, “Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn
Trung Quốc phạm tội ác xâm lược, tội ác chống hòa bình và an ninh quốc tế;”
UBKHXHVN, Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm
quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội: KHXH, 1979), tr. 126-127, 130-131
[4]Huỳnh Văn Trình, Sự hình thành đường biên giới Việt
Nam – Trung Quốc, 1979, Uỷ ban Biên giới quốc gia.
[5] Statement by the Ministry of Foreign Affairs of
the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June
6, 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[6] Statement of the Ministry of Foreign Affairs of
the People’s Republic of China on the expulsion of Chinese residents by Vietnam
on June 12. 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118404
[7] Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30
năm qua, NXB Sự Thật, Hà Nội tháng 10 năm 1979, phần 4
[9] King C. Chen, China’s War with Vietnam,
1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, 1987, pp. 51-53 (King
C. Chen, China’s War with Vietnam)
Statement
by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on
question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978,
http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[11] D.V. Mosiakov, Chính sách của Trung Quốc ở Đông
Nam Á từ quá khứ đến hiện tại,Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (Viện Hàn lâm KHXH Việt
Nam) dịch, NXB Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2016, 358 trang.
[12]Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War: China’s
Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India),
Volume 16, No 1, 1980, p. 15-32.
[13]Womack, Brantly. China and Vietnam: The
Politics of Asymmetry, Cambridge University Press 2006, p. 192
Vogel,
Ezra F. Deng Xiaoping and the Transformation of China, Harvard
University Press, 2013. Chapter 9. The Soviet-Vietnamese Threat 1978–
1979, pp 266-276
[14]King C. Chen, China’s War Against Vietnam, A Military
Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p.
233-263. Ngô Bắc dịch
[16]Ramesh Thakur: Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings
Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, No
1, 1980, p. 69.
[17]“Regional hegemonist policy,” “Indochina Federation,”
They found a patron in Soviet social-imperialism;” Tighter to the apron strings
of social-imperialism”. Renmin Ribao(Beijing), 4/9/1978; Peking
Review No 36, 8/9/1978, pp. 23-4.
[20]Herbert S. Yee,The Sino-Vietnamese Border War: China’s
Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India Tom
16, Volume 1, 1980, p. 15-32.
[21]Nayan Chanda, Brother Enemy: The War After
The War, A History of Indonchina after the fall of Saigon, San Diego – New York
– London, Harcourt Brace Jovanovic Publishers 1986, p.134
[22] Joint Communiqué on the Establishment of
Diplomatic Relations between the United States of America and the People’s
Republic of China, January 1, 1979, http://13ndxw3o9yns2zjjq31htyst.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/uploads/2017/08/choices-china-US-china.pdf
[24]Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the
February 1979 Sino-Vietnamese Conflict, 20 April 1996
[25]Theo Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung Quốc đánh Việt
Nam “Cũng một cách nữa là họ trả thù cho Pol Pot. Đồng thời lúc bấy giờ ông Đặng
Tiểu Bình cũng muốn quan hệ với Mỹ cho nên đánh chúng tôi để cho Mỹ thấy rằng là
giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là đồng minh, không phải là cùng nhau Cộng
Sản nữa. Trung Quốc muốn cho Mỹ tin để phát triển quan hệ với Trung Quốc. Vì
Trung Quốc lúc bấy giờ muốn phát triển quan hệ với Mỹ. Đánh Việt Nam là một món
quà tặng cho Mỹ”.
[26] Thẩm Thính Tuyết, diễn đàn “Điểm lại cuộc chiến
tranh Việt-Trung 1979” tổ chức ngày 9/2/2015 ở Hồng Kông, trích lại từ Kiều Tỉnh, http://soha.vn/quoc-te/chien-tranh-bien-gioi-1979-tq-ra-lenh-gap-nguoi-vn-la-giet-het-20160216223609194.htm,
18/2/2016.
[27]John M. Peppers, Lieutenant Colonel, United States
Army, Strategy In Regional Conflicy: A Case Study of China in the Third
Indochina Conflict of 1979, Carlisle Barracks, Pennsylvania: U. S. Army War
College, 2001, 48 p.
[29]Colonel G. D. Bakshi, VSM, The Sino-Vietnam War – 1979:
Case Studies in Limited Wars, Indian Defence Review, Volume 14 (2) July –
September 2000.
Nhận xét
Đăng nhận xét