LẠI NÓI CHUYỆN… XÔI

LẠI NÓI CHUYỆN… XÔI


Trong entry trước tôi có viết về món ăn dân dã xôi lúa (còn được gọi là xôi ngô, xôi bắp), hôm nay sắp cuối tuần rồi, nhân đây xin nói thêm ba điều bốn chuyện chữ nghĩa nữa về... xôi.

Ít nhất nói nghiêm túc xôi cũng có hai nghĩa (ở đây xin không bàn đến nghĩa... giang hồ). Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ (Hoàng Phê chủ biên),xôi được giải thích như sau:

- Xôi: I. danh từ: 1. món ăn bằng gạo nếp đồ chín. 2. (phương ngữ): cơm nếp.
          II. động từ (cũ): nấu xôi. Xôi một chõ xôi.

Chữ xôi ở đây (nghĩa thứ II.) có nghĩa là nấu, những từ đồng nghĩa: nấu, xôi, thổi. Như: nấu một nồi cơm, thổi một nồi cơm, thổi một nồi xôi, xôi một chõ xôi). Chữ xôi có nghĩa là nấu còn hiện diện trong câu nấu sử, xôi kinh (hay xôi kinh, nấu sử), cũng được viết là nấu sử, sôi kinh.

Trong Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội-1931), chữ xôicũng có hai nghĩa:

- Xôi: 1. Thứ đồ ăn bằng gạo nếp nấu cách thủy.
           2. Dôi ra, nở ra. Sinh xôi nảy nở.

Sau này chữ xôi ở nghĩa thứ 2. được viết dưới dạng sôi: Sinh sôi nảy nở.

Trong entry này tôi muốn nói đến từ xôi (danh từ), có nghĩa là món ăn được đồ từ nếp, và một số câu thành ngữ, ca dao nói về món xôi.

- Ăn mày đòi xôi gấc:  Là ăn mày đi xin người ta cho thứ gì thì biết thứ ấy, còn đòi xôi gấc (xôi gấc là thứ xôi thường được sử dụng trong đám cưới, đám giỗ), ý chỉ kẻ tham lam.

- Ăn xôi chùa ngọng miệng: đã ăn của người khác cái gì rồi thì không dám mở miệng chê bai phê bình nữa.

- Ăn xôi chùa, quét lá đa: Ăn xôi của chùa thì phải quét lá đa, ý nói khi đã được hưởng cái gì của người khác thì phải làm gì đó bù đắp lại, tựa như câu có qua có lại mới toại lòng nhau.

- Ăn xôi đòi đĩa: Có lẽ câu này có hai ý: 1. đã được cho ăn xôi còn đòi luôn cả đĩa đựng (chẳng hạn kẻ ăn mày ghé đám giỗ nhà người ta xin, được cho nắm xôi ăn, còn đòi phải đựng trong đĩa), ý nói kẻ không biết điều. 2. đựợc ăn xôi còn đòi (lấy) luôn cả đĩa đựng xôi, ý nói kẻ tham lam, tựa như câu được voi đòi tiên.

- Chết chẳng muốn, muốn ăn xôi: xôi là thứ thường có trong đám cúng giỗ, ý nói muốn hưởng nhưng lại không muốn đánh đổi lại cái gì.

- Cho xôi không bằng đòi đĩa: khi cho xôi thường xôi được đựng trong đĩa, đã có lòng tốt cho (biếu) ai xôi, lỡ người ta quên (hay chưa kịp trả đĩa), thì việc đi đòi đĩa là hành động khó khăn, không được tế nhị.

- Có thịt đòi xôi: Cũng tựa như câu ăn mày đòi xôi gấc.

- Có xôi nói xôi dẻo, có thịt nói thịt bùi: xôi dẻo, thịt bùi là thức ăn ngon, ý nói người thích khoe khoang, món nào mình có cũng cho là ngon.

- Cơm tẻ ăn no, xôi vò chả thiết: xôi vò là món ăn ngon, ngày xưa thường có trong lễ giỗ, lễ cưới, ý nói đã no (đầy đủ) rồi thì không thiết gì nữa.

- Hết xôi rồi việc: Hết xôi thì cũng xong chuyện, ý nói chỉ vì miếng ăn chứ không vì tình nghĩa, cũng tựa như câu hết cơm hết gạo hết ông tôi.

- Xôi giả vạ thật: ý nói lợi lộc đâu không thấy, chỉ thấy tai họa.

- Xôi hỏng bỏng không: xôi và bỏng là hai món ăn dân gian, xôi được đồ từ gạo nếp, bỏng là hạt thóc nếp (lúa nếp) rang nổ bung ra, bỏ đi lớp vỏ trấu bên ngoài, thường hạt bỏng được ngào thêm với mật, đường, nắm lại thành nắm tròn bằng nắm tay hay đóng thành bánh, là món ăn chơi trẻ con ngày xưa ưa thích. Câu thành ngữ ý nói xôi, bỏng cũng hỏng ăn (không được ăn), làm việc gì đó nhìn thấy có lợi mà cuối cùng không thu được kết quả gì.

- Xôi thịt nó bịt lấy miệng: cũng như ăn xôi chùa ngọng miệng.

- Xôi thịt thì ít, con nít thì nhiều: ý nói cái lợi thì ít mà có nhiều người giành giật, như mật ít ruồi nhiều.

Trong bài thơ Làm lẽ của nhà thơ Hồ Xuân Hương có câu:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
 Cầm bằng làm mướn, mướn không công.

 Chữ "hẩm" ở đây có nghĩa là đồ ăn bị thiu, ôi, mốc không còn ăn được (cơm hẩm, gạo hẩm, xôi hẩm).

Một vài câu ca dao liên quan đến xôi:

Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một như đường mía lau.

- Chuối ba hương: chuối chín thắp ba tuần hương (Từ điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam, Vũ Dung-Vũ Thúy Anh- Vũ Quang Hào, NXB văn Hóa-Thông Tin-1998). Chuối ngon chín tới.
- Xôi nếp một: xôi nấu bằng nếp một (nếp hạng nhất).
- Đường mía lau: mía lau là loại mía cây nhỏ hơn mía thường, có vị ngọt thanh chứ không ngọt gắt, cũng là vị thuốc, thường được nấu làm nước mát uống mát gan, giải nhiệt, giải độc cùng với một số cây cỏ vị thuốc khác như rễ tranh, mã đề, râu bắp, hoa cúc...

Câu ca dao trên không ví mẹ già với những gì sang trọng, xa vời, mà ví với những sản vật rất dân dã nhưng ngon ngọt, quen thuộc quanh ta...

Vài câu ca dao khác:
Có duyên lấy được chồng già,
Ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương.

Ăn trầu thì phải có vôi,
Cúng rằm thì phải có xôi có chè.

Có oản anh tính phụ xôi, 
Có cam phụ quýt, có người phụ ta.

Mẹ em tham thúng xôi dền, 
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng.
Bây giờ kẻ thấp người cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.

- Xôi dền: xôi vừa chín đến, Việt Nam Tự Điển, Hội Khai Trí Tiến Đức. Xôi đồ vừa chín tới (cũng như chuối ba hương là chuối được thắp ba tuần hương vừa chín tới), những gì vừa chín tới đều ngon. Thúng xôi, con lợn béo, tiền Cảnh Hưng ngày trước được dùng trong sính lễ cưới, hỏi (Giúp em một thúng xôi vò/ Một con lợn béo, một vò rượu tăm - Tát nước đầu đình).

...

Chắc chắn còn thiếu nhiều, xin mời các bạn bổ sung.


Phạm Ngọc Hiệp

Nhận xét

Bài đăng phổ biến