Việc rút lui khỏi Kontum và Pleiku—qua những con đường phụ trên vùng đất gồ ghề
—sẽ rất khó khăn ngay cả trong điều kiện tốt nhất. Tuy nhiên, với quân đội Bắc
Việt đang truy đuổi gắt gao và đám đông dân thường hoảng loạn chen chúc với các
đơn vị quân đội, cuộc rút lui nhanh chóng trở thành một cảnh tượng hỗn loạn
hoàn toàn.Khi đoàn xe dẫn đầu đến Sông
Ea Pa, chỉ cách Cheo Reo, thủ phủ của Tỉnh Phú Bổn, vài km về phía đông nam,
đoàn xe phải dừng lại trong ba ngày để xây dựng một cây cầu phao. Trong khi đó,
đoàn xe bị dồn lại và đám đông dân tị nạn theo sau họ tụ tập dọc theo con đường
bên ngoài Cheo Reo. Đến ngày 18 tháng 3, hơn 200.000 quân lính và dân tị nạn
chen chúc xô bồ trên một đoạn đường ngắn. Sau này, Đại tá Lý đã nhớ lại cảnh tượng
này được gọi là “đoàn xe nước mắt”: “Con đường từ Pleiku thật kinh khủng. Tôi
thấy nhiều người già và trẻ em ngã xuống đường và xe tăng, xe tải cán qua họ.
Tai nạn xảy ra liên tục. . . . Không ai có thể kiểm soát được bất cứ điều gì.
Không có chút trật tự gì. Binh lính chen lẫn với vợ con, chamẹ họ và dân thường đang cố gắng chăm sóc người
thân. Bạn không thể tưởng tượng được. Thật kinh khủng. Không có sự kiểm soát. .
. .Dòng người tị nạn bị kéo dài từ Cheo
Reo trở lại điểm mà đường 7B và đường 14 tách đôi.” Sự hỗn loạn ngự trị. Tính toàn vẹn của đơn vị biến mất, cũng như mọi sự
kiểm soát dù là bề ngoài. Các đơn vị không thể di chuyển vì họ bị đám đông dân
thường làm nghẽn lại. Dân thường, nhiều người trong số họ đã chạy trốn khỏi
Pleiku chỉ mang theo những gì họ có thể trên lưng của mình, có rất ít thức ăn
hoặc nước uống. Bị giày vò bởi đói khát, họ cũng bị quấy rối bởi bọn đào ngũ
lang thang. Khối lượng dân chúng hỗn loạn khiến QĐVNCH gần như không thể thiết
lập được một phòng tuyến vững chắc dọc theo con đường. Khi QĐVNCH bắt đầu di tản khỏi Pleiku, Tướng Dũng nhanh chóng lấy lại sự
tỉnh táo sau cơn sửng sốt ban đầu của mình về động thái này. Nhận ra rằng mình
có cơ hội tiêu diệt toàn bộ quân đoàn miền Nam, ông đã ra lệnh cho Sư đoàn 320
di chuyển khỏi vị trí của mình dọc theo Đường 14 để tấn công vào sườn quân miền
Nam đang chạy trốn. Cùng lúc đó, ông chỉ đạo Sư đoàn 968 đánh vào phía sau đoàn quân, trong
khi các lực lượng Mặt trận B-1 được lệnh cắt Đường 7B phía trước đoàn quân dẫn
đầu. Tấn công đầu, đuôi và sườn cùng lúc là một kỹ thuật phục kích truyền thống
của Việt Cộng, nhưng chưa bao giờ nó được áp dụng trên quy mô lớn như vậy. Khi đêm xuống ngày 18 tháng 3, quân Bắc Việt nổ súng vào đám binh lính và
dân tị nạn đông đúc dọc theo Đường 7B. Ngay sau đó, Sư đoàn 320 quân Bắc Việt
đã tấn công đoàn quân dẫn đầu tại Cheo Reo. Cùng lúc đó, các đơn vị quân Bắc Việt
khác đã tấn công Nhóm Biệt động quân số 6 đang tiến đến phía sau của đoàn quân
chính gần thị trấn Thanh An tại ngã tư Đường 14 và Đường 7B. Suốt đêm, quân Bắc
Việt đã pháo kích vào đoàn quân và dùng súng nhỏ, súng máy và hỏa lực chống
tăng để tấn công. Tác động của hỏa lực lên binh lính, xe cộ và dân thường chen
chúc nhau như vậy thật là tàn khốc. Sáng hôm sau, một phi công trực thăng của
Không lực Việt Nam bay trên khu vực này đã báo cáo, “Khi tôi bay thấp, tôi có
thể nhìn thấy xác chết nằm rải rác dọc theo con đường đang cháy cùng với những
chiếc xe tải.” May mắn thay, cây cầu phía đông nam Cheo Reo đã hoàn thành vào sáng sớm
ngày 19 tháng 3 và đoàn quân bắt đầu di chuyển trở lại. Tối hôm đó, Tướng Phú
ra lệnh cho Đại tá Lý bay ra khỏi Cheo Reo bằng trực thăng. Vì Tướng Tất vẫn
đang chỉ huy hậu quân, nên không còn ai phụ trách kiểm soát việc di chuyển của
đoàn quân, và từ đó trở đi, các đơn vị riêng lẻ trong đoàn quân tự lo liệu. Trực
thăng của Không quân Việt Nam đã bất chấp hỏa lực dữ dội để bốc những binh lính
và thường dân bị thương trên đường. Một người lính bị thương được sơ tán khỏi
Cheo Reo, mô tả cuộc tấn công của quân Bắc Việt dọc đường, nói rằng, “Họ tấn
công chúng tôi bằng mọi thứ. . . . Dân nằm khắp mặt đường khi chúng tôi cố gắng
chiến đấu để thoát ra. Binh lính tử trận và người dân cũng tử trận theo họ.” Đến
đêm ngày 19 tháng 3, đoàn quân đầu tiên đã đến Sông Côn, chỉ cách bờ biển khoảng
40 km.Tuy nhiên, giao tranh trên toàn
tuyến đường vẫn diễn ra ác liệt. Một tiểu đoàn xe tăng VNCH cố gắng đột phá vào
đầu ngày đã bị bốn máy bay ném bom chiến đấu của bên ta ném bom nhầm, phá hủy bốn
xe tăng và giết hoặc làm bị thương một số binh lính và thường dân. Khi các lực
lượng miền Nam ra sức chiến đấu trên đường, quân Bắc Việt đã tấn công xa hơn
vào hàng ngũ, gần thị trấn Phú Túc. Đội hậu quân biệt động đang chiến đấu hết
mình khi một cuộc không kích nhầm lẫn khác của KQVN đã ném bom vào Nhóm biệt động
số 7, xóa sổ hầu hết một tiểu đoàn. Nói một cách quá từ tốn, Đại tá Lý sau đó
phát biểu rằng những sai lầm như vậy đã “làm giảm nhuệ khí rất, rất nhiều”. Một số đơn vị đã chiến đấu anh dũng trước mọi khó khăn, nhưng hầu hết thì
không, và tình hình nhanh chóng xấu đi.Giống như ở Ban Mê Thuột, hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng nghìn,
binh lính miền Nam đã đào ngũ trước mặt kẻ thù để cố gắng tìm kiếm người thân
và đưa họ đến nơi an toàn. Những người khác chỉ bỏ chạy đểtự cứu mình. Tướng Thịnh, cựu chỉ huy pháo
binh của Quân đoàn, sau này đã ca ngợi những người chỉ huy biết giữ cho đơn vị
của họ đoàn kết, nhưng thường là vô ích, mọi thứ dường như đều tan rã: Chúng ta phải chào các chỉ huy tiểu đoàn và sĩ quan cấp dưới vì đã hành
quân cùng đơn vị của họ nhưng họ không còn có thể kiểm soát được đám binh sĩ đã
kiệt sức và tuyệt vọng của mình. Những người lính liên tục hét lên những lời
lăng mạ Thiệu vì cuộc rút lui khủng khiếp,khốn nạn và bất khả thi này. Một số người đã đạt đến giới hạn của sự tuyệt
vọng và giết chết các sĩ quan. Một chỉ huy tiểu đoàn pháo binh đang hành quân
trong đội hình rút lui đã bị một số lính biệt động bắn chết vì muốn cướp lấy
chiếc đồng hồ đẹp đẽ của anh ta. Sự tuyệt vọng lớn đến mức có lúc hai hoặc ba
du kích VC đến hiện trường có thể bắt được 100lính biệt động làm tù binh.Vợ
con của những binh lính rút lui đã chết vì đói và bệnh tật trên đường. Đó là một
địa ngục thực sự. Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn ở phía sau lực lượng chính của đoàn
quân cuối cùng, nơi lực lượng địa phương quân đã bị bỏ lại để tự lo liệu. Một
ĐPQ sau đó báo cáo: Hầu hết đồng đội tôi đã chết trên đường. . . . Có rất nhiều xác chết la
liệt trên đường. Một số vẫn còn sống nhưng họ không có thức ăn và nước uống.
Không có ai chăm sóc họ. Chỉ huy của chúng tôi, trung tá, đã chạy trốn để bảo
toàn mạng sống và không có ai phụ trách. . . . chúng tôi chỉ cố gắng chiến đấu
để dọn đường cho chính mình, chúng tôi không bảo vệ được ai. Hầu hết đồng đội
trong tiểu đoàn của tôi vẫn còn trên đường. Một số đã chết, một số bị thương, một
số đang cố gắng vượt qua khu rừng rậm. Có hơn 12 tiểu đoàn khác từ Pleiku và
Kontum và Phú Bổn vẫn còn ở lại.Họ ở
phía sau đoàn xe vì họ chưa bao giờ nhận được lệnh rút lui. Ngày 21 tháng 3, quân Bắc Việt đã đánh tan Trung đoàn Biệt động 23 bảo vệ
phía sau lực lượng chính. Tiếp theo, họ nhanh chóng di chuyển xuống đường và
chiếm Che Reo, cắt đứt hoàn toàn Đường 7B và cô lập các nhóm Biệt động 8 và 25
và khoảng 160.000 thường dân. Quân Bắc Việt đã cắt đứt hiệu quả đường cao tốc
và các lực lượng trải dài dọc theo đường thành các đoạn riêng biệt. Thông qua
Tướng Tất, người vẫn ở phía sau của đội hình chính, Tướng Phú đã ra lệnh cho
các đơn vị chính quy bị mắc kẹt bỏ lại tất cả vũ khí hạng nặng và chạy trốn bằng
mọi cách có thể. Cả binh lính và thường dân đều thoát thân theo mọi hướng qua
khu rừng. Quân Bắc Việt đã truy đuổi. Một phụ nữ từ Pleiku sau đó đã thuật lại
rằng Quân đội Bắc Việt “đi từ trong rừng ra và bảo mọi người dừng lại. Chúng
tôi đang đi trên một con dốc. Chúng tôi tiếp tục di chuyển. Họ liền bắt đầu bắn
vào tất cả chúng tôi.” Tệ hơn nữa, binh lính và dân tị nạn còn lại trên đường
đã hết lương thực và hết nước uống. Các máy bay trực thăng của Không quân Việt
Nam đã cố gắng chuyển khẩu phần ăn dã chiến của Mỹ, gạo và sữa khô, nhưng nỗ lực
của họ không đủ để hoàn thành nhiệm vụ quá to lớn đối với sức mình. Mặc dù lực lượng VNCH ở phía trước đoàn quân đã đến được Sông Ba, nhưng
khó khăn của họ vẫn chưa hết. Để vượt sông, Tướng Phú đã yêu cầu dựng một cây cầu
phao. Tuy nhiên, khi xe tải rời Tuy Hòa đến địa điểm vượt sông, họ đã đụng độ một
chốt chặn của quân Bắc Việt và không thể đi xa hơn được nữa. Họ quay trở lại
Tuy Hòa, nơi các đoạn cầu phao phải được nhấc đi từng khúc bằng các trực thăng
CH-47 mượn từ Quân đoàn IV. Đến ngày 22 tháng 3, cây cầu đã được dựng xong. Thật
không may, đợt binh lính và dân tị nạn đầu tiên hoảng loạn chạy qua cầu đã làm
lật một đoạn cầu phao quá tải, hất tung người và xe xuống nước. Việc sửa chữa
phải kéo dài đến tận cuối ngày, giao thông sau đó bắt đầu thông suốt một lần nữa. Ngày hôm sau, ngay cả thời tiết cũng trở nên bất lợi cho quân đội miền
Nam. Việc di chuyển trên đường bị cản trở bởi giá lạnh và sương mù, sương mù
cũng cản trở sự hỗ trợ không quân tầm gần vốn rất cần thiết. Cuộc hành trình vẫn
quanh co. Đoàn quân đi đầu cố gắng tiến lên chống lại quân đội Bắc Việt trong
khi Nhóm Biệt động số 6 ở hậu quân ra sức chiến đấu chống lại quân địch. Vào
ngày 27 tháng 3, sau cuộc chiến đấu tuyệt vọng để loại bỏ các vị trí của kẻ thù
chặn đường đến bờ biển, Tiểu đoàn Biệt động số 34 đã đột phá và liên kết với một
đơn vị ĐPQ đã chiến đấu ở phía đông Tuy Hòa. Trong quá trình đột phá, Tiểu đoàn
Biệt động số 34 đã chịu quá nhiều thương vong đến nỗi gần như không còn là một
lực lượng chiến đấu nữa. Theo ước tính của Đại tá Lý, chỉ có khoảng 20.000 trong số 60.000 quân khởi
hành từ Pleiku và Kontum cuối cùng đã đến được Tuy Hòa, và hầu hết những binh
sĩ sống sót này không còn đủ sức chiến đấu. Chỉ có khoảng 700 trong số 7.000 biệt
động ban đầu trốn thoát. Tướng Viên báo cáo rằng trong vòng chỉ 10 ngày, “75 phần
trăm sức chiến đấu của Quân đoàn II, bao gồm Sư đoàn Bộ binh 23 cũng như biệt động,
thiết giáp, pháo binh, công binh và các đơn vị thông tin, đã bị tiêu hao một
cách thảm khốc.”Việc rút lui khỏi
Pleiku và Kontum cũng đã chứng tỏ là một thảm họa đối với những người tị nạn.
Trong số khoảng 400.000 thường dân cố gắng chạy khỏi Kontum, Pleiku, Phú Bổn và
Cheo Reo, chỉ có khoảng 60.000 đến 100.000 người thoát thân được. Mất mát về vật tư và thiết bị là rất lớn. Hàng trăm khẩu pháo và xe bọc
thép đã bị phá hủy trên đường hoặc bị bỏ lại ở Pleiku. Chỉ một số ít xe bọc
thép, bao gồm chỉ 30 xe bọc thép chở quân, đến được Tuy Hòa. Gần 18.000 tấn đạn
dược, lượng dự trữ trong một tháng cho quân đoàn, đã bị bỏ lại trong các kho ở
Ban Mê Thuột, Pleiku và Kontum. Hàng chục máy bay còn nguyên vẹn đã bỏ lại cho
kẻ thù ở Pleiku. Một cựu tướng lĩnh miền Nam sau này đã nói rằng cuộc rút lui khỏi Pleiku
“phải được xếp vào một trong những cuộc rút lui được lên kế hoạch tệ hại nhất
và được thực hiện tồi tệ nhất trong biên niên sử quân sự”. Cuộc điều động không
đúng lúc của Tướng Phú đã tiêu diệt gần như toàn bộ một quân đoàn và dẫn đến việc
mất Pleiku và Kontum mà hầu như không có một trận đánh nào. Các kế hoạch chiếm
lại Ban Mê Thuột giờ đây đã bốc hơi.“Thất
bại tự mình gây ra” này, như Tướng Viên sau này mô tả, “tương đương với một cơn
ác mộng khủng khiếp đối với người dân và lực lượng vũ trang miền Nam. Nỗi hoang
mang, lo lắng, bất an, cáo buộc lẫn nhau, mặc cảm tội lỗi lỗi và cảm giác chung
quặn thắt đau khổ bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người.” Người miền Nam đã mất
sáu tỉnh trong một thời gian rất ngắn, và niềm tin của họ đã bị chấn động
nghiêm trọng. Arnold Isaacs, phóng viên Sài Gòn của tờ Baltimore Sun, đã chứng
kiến thảm họa ở Quân đoàn II và viết: “Có một cảm giác về một bộ phận quan trọng
bị lỏng lẻo. Sau khi chịu đựng quá nhiều trong thời gian dài mà chẳng được đền
đáp xứng đáng, những người lính VNCH này giờ đã nếm trải cảm giác bị phản bội
mà ngay cả sức chịu đựng đáng kinh ngạc của họ cũng không thể chịu đựng thêm được
nữa. Bị các sĩ quan bỏ rơi và bị bỏ lại trên cung đường tồi tệ của Pleiku, họ
thậm chí còn bị cướp mất cơ hội cứu vãn lòng tự hào của mình bằng cách chiến đấu
trở lại. . . . Không thể tin rằng họ sẽ trở thành một đội quân ra hồn một lần nữa.”
Mặc dù thất bại ở Cao nguyên Trung phần đã tệ đến thế, nhưng một thảm họa thậm
chí còn tồi tệ hơn đang diễn ra cách đó 200 dặm về phía bắc.
Nhận xét
Đăng nhận xét