BỎ RƠI VIỆT NAM:-73-THIỆU TỪ CHỨC

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
73-THIỆU TỪ CHỨC

Vị trí của Thiệu và thậm chí cả sự an toàn cá nhân của ông đã trở nên bấp bênh. Vào ngày 18 tháng 4, đặc công Bắc Việt đã tấn công trạm radar Phú Lâm ở ngoại ô Sài Gòn. Khi Tướng Toàn, tư lệnh Quân đoàn III, gọi điện để thông báo cho tổng thống về cuộc tấn công mới vào trạm radar, ông cũng xác nhận rằng tuyến phòng thủ ở Xuân Lộc đang bên bờ vực sụp đổ và Phan Rang đã thất thủ. Sau đó, ông nói với Thiệu rằng binh lính VNCH đã “ủi sập và san phẳng” khu mộ tổ tiên của Thiệu bên ngoài Phan Rang. Sự xúc phạm khủng khiếp này cho thấy Thiệu đã sa sút đến mức nào trong mắt của đồng bào mình.  Đến lúc này, cựu trung tướng QLVNCH Lâm Quang Thi đã viết, Thiệu đã trở thành “người bị căm ghét nhất ở Việt Nam”.
 
Sau ngày hôm đó, một nhóm chính trị ôn hòa và các nhân vật đối lập đã đối đầu với Thiệu và nói với ông rằng họ sẽ công khai yêu cầu ông từ chức nếu ông không tự nguyện từ chức trong vòng sáu ngày. Thiệu đã đáp trả bằng cách bắt giữ một số sĩ quan quân đội cấp cao, bao gồm cả tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Phú, người mà ông khẳng định phải chịu trách nhiệm nhiều hơn ông về thảm họa quân sự này. Tướng Đồng Văn Khuyên đã viết sau chiến tranh rằng Thiệu đã tin gần như đến phút cuối cùng rằng người Mỹ sẽ không để ông và đồng bào của mình phải chịu thất bại; nhưng cuối cùng, tổng thống miền Nam cũng nhận ra rằng thời gian đã hết. Thủ đô của ông đã bị quân đội Bắc Việt bao vây, nhân dân không còn ủng hộ ông nữa, và giờ đây rõ ràng là Hoa Kỳ đã bỏ rơi ông.
 
Vào ngày sau khi yêu cầu viện trợ bổ sung bị bác bỏ, Đại sứ Martin đã gửi điện tín cho Kissinger rằng ông tin rằng các thành viên của Bộ Tổng tham mưu có thể sẽ có động thái loại bỏ tổng thống miền Nam khi rõ ràng là Hoa Kỳ sẽ không cung cấp thêm viện trợ. Martin cho biết ông có ý định đến gặp Thiệu “trừ khi được chỉ thị ngược lại” và bảo ông ta rằng “vị trí của ông trong lịch sử sẽ được đảm bảo hơn khi tất cả những điều thực sự có ý nghĩa mà ông đã hoàn thành được ghi chép lại,” và nếu Thiệu khăng khăng muốn tiếp tục nắm quyền, ông sẽ bị “ghi nhớ vì đã cản trở  thực hiện những nỗ lực cứu vớt những gì còn lại của Việt Nam như một quốc gia tự do hợp lý.” Martin sẽ “hoàn toàn làm rõ” rằng ông chỉ lên tiếng cho chính mình “như một người bạn” và nói thêm rằng “kết luận khách quan và vô tư của ông là nếu Thiệu không làm điều này [tự nguyện rời chức vụ], các tướng lĩnh của ông sẽ buộc ông phải ra đi.” Trong cùng một thông điệp, Martin cũng thúc giục mạnh mẽ vị ngoại trưởng thuyết phục Liên Xô và Trung Quốc hãy sử dụng ảnh hưởng của mình để khiến Bắc Việt chấp nhận lệnh ngừng bắn và các cuộc đàm phán mới. Kissinger trả lời cùng ngày trong một thông điệp có ghi chú “Bí mật. Chỉ dành riêng cho Kênh Martin.” Ông nói với Martin: “Tôi đã thảo luận về [thông điệp] Saigon 710 của ông với Tổng thống. Không có phản đối nào đối với tiến trình của ông như ông đã nêu trong Đoạn 9.” Tổng thống đã bật đèn xanh cho Martin cố gắng thuyết phục Thiệu từ chức.
 
Kissinger đã gặp Anatoly Dobrynin, đại sứ Liên Xô tại Hoa Kỳ, để yêu cầu hỗ trợ. Sau đó, Liên Xô đã truyền đạt thông tin rằng Bắc Việt không có kế hoạch tấn công Sài Gòn trong chiến dịch hiện tại của họ. Đây có thể là cảm nhận của Moscow, nhưng Bắc Việt, tự tin chiến thắng quân sự cuối cùng nằm trong tầm tay, đã quyết tâm nắm bắt cơ hội của mình. Một điệp viên miền Nam, nằm bên trong Trung ương cục Miền Nam từ chiến trường vào ngày 17 tháng 4, báo cáo rằng quân đội Bắc Việt đang có kế hoạch chiếm Sài Gòn; bất kỳ cuộc đàm phán nào, có hoặc không có Thiệu, đều không được đặt ra. Ông ta nói rằng bộ tư lệnh cấp cao của Cộng sản đã thề sẽ vào Sài Gòn để kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chí Minh vào ngày 19 tháng 5.
 
Vào tối Chủ Nhật, ngày 20 tháng 4, Đại sứ Martin đã đến thăm Tổng thống Thiệu. Ông mang theo bản ước tính tình báo mới nhất của CIA. Bức tranh mà ông vẽ ra thật ảm đạm. Ông nói với Thiệu: “Tôi tin rằng trong vài ngày nữa, các vị tướng của ông sẽ đến bảo ông từ chức”. Ngoài ra, Martin còn nói rằng Bắc Việt đã đưa ra những dấu hiệu rõ ràng rằng họ sẽ không đàm phán chừng nào Thiệu vẫn còn là tổng thống. Martin không nói với Thiệu rằng ông ta nên từ chức, nhưng cho biết mình  chỉ nói với tư cách là một người bạn chứ không phải với tư cách chính thức, ông bình luận rằng quyết định rời chức vụ là của Thiệu và Thiệu tự đưa ra. Tổng thống miền Nam hỏi liệu việc ông từ chức có thể có tác động tích cực đến cuộc bỏ phiếu viện trợ tại Quốc hội hay không. Martin trả lời rằng điều đó có thể giúp ích, nhưng có lẽ không — rằng đó là một “cuộc mặc cả đã qua rồi”. Thiệu lặng lẽ lắng nghe tất cả những điều này và đảm bảo với đại sứ rằng ông sẽ “làm điều gì tốt nhất cho đất nước”.
 
Cuối ngày hôm đó, Thiệu được Đại sứ Pháp Jean-Marie Merillon đến thăm. Đại sứ cũng nói với tổng thống rằng mình đã nghe tin đồn có nhiều vị tướng đã chuẩn bị buộc ông phải từ chức nếu ông không chịu từ chức. Không rõ liệu thực sự có một âm mưu loại bỏ Thiệu hay không. Tướng Viên, đứng đầu Tổng Tham mưu Liên quân, sau đó cho rằng Martin và Merillon đã sai: “Tôi chắc chắn rằng về phía chúng tôi hoàn toàn không có áp lực nào từ bất kỳ vị tướng nào buộc Thiệu phải từ chức”. Tuy nhiên, Viên thừa nhận đã gặp một nhóm bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn và Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, nhưng nhấn mạnh rằng nhóm này họp để thảo luận về tình hình chứ không phải để âm mưu chống lại Thiệu. Một số nhà quan sát cho rằng nhóm này có kế hoạch kêu gọi Thiệu từ chức.
 
Bất kể bản chất của các cuộc họp, ngày hôm sau, trong nỗ lực ngăn chặn bất kỳ sự lật đổ nào, Thiệu đã triệu tập các thành viên chủ chốt trong chính phủ của mình đến Dinh Độc lập. Ông bắt đầu bằng cách kể lại chi tiết các cuộc thảo luận của mình với Đại sứ Martin và Merillon. Sau đó, ông nói rằng ông sẽ đưa ra quyết định dựa trên phản ứng của họ và liệu họ có coi ông là trở ngại cho hòa bình hay không. Không ai nói một lời. Theo cố vấn của tổng thống Nguyễn Hưng, Thiệu ngay lúc đó đã quyết định từ chức.
 
Ngày hôm sau Thiệu xuất hiện trước một phiên họp toàn thể của Quốc hội. Trong bài phát biểu dài ba giờ được truyền hình toàn quốc này, một bài diễn văn dài dòng và đầy cảm xúc, ông đã chỉ trích Hoa Kỳ vì đã không thực hiện đúng các cam kết của mình: “Hoa Kỳ đã không tôn trọng các lời hứa của mình. Thật vô nhân đạo. Thật bất tín. Thật vô trách nhiệm.” So sánh cuộc tranh luận gần đây của quốc hội Mỹ về yêu cầu viện trợ bổ sung với “việc mặc cả ở chợ cá”, ông nói rằng ông “không thể để người khác mặc cả về sinh mạng của những người lính chúng ta”. Sau đó, ông tuyên bố quyết định từ chức và chuyển giao chính phủ cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Thiệu kết luận: “Tôi ra đi hôm nay. Tôi xin đồng bào, lực lượng vũ trang và các nhóm tôn giáo tha thứ cho những sai lầm trong quá khứ của tôi khi còn nắm quyền. Đất nước và tôi sẽ biết ơn các bạn. Tôi thật không xứng đáng. Tôi từ chức, nhưng tôi không đào ngũ”. Ngày hôm sau, với sự hỗ trợ của các quan chức Hoa Kỳ, Thiệu rời Sài Gòn đến Đài Loan.
 
Vào thời điểm Hương nhậm chức, trận chiến ở Xuân Lộc, mặc dù vẫn chưa kết thúc, đã được định đoạt. Quân Bắc Việt, tiến gần hơn đến Sài Gòn mỗi phút, không quan tâm đến việc đàm phán với tổng thống mới hoặc bất kỳ ai khác.  Hãng thông tấn chính thức của Bắc Việt gọi sự thay đổi trong lãnh đạo là một “chương trình múa rối” và lên án chính quyền mới là “chế độ Thiệu mà không có Thiệu”.
 
Tuy nhiên, Hương đã cố gắng tiếp cận những người Cộng sản.  Ông kêu gọi một lệnh ngừng bắn ngay lập tức và thành lập Hội đồng Hòa giải Quốc gia theo Hiệp định Hòa bình Paris.  Ông cũng đề xuất Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp làm thành viên đặc biệt đến Hà Nội.  Bắc Việt trả lời một cách trịch thượng rằng đề xuất ngừng bắn của Hương “không lừa dối được ai” và “không thể nào giúp người Mỹ tránh khỏi thảm bại”.
 
 Vào thời điểm này, chú ý ​​của người Mỹ đã chuyển tâm sang cuộc tản cư.  Vào ngày 23 tháng 4, Ford đã phát biểu tại Đại học Tulane ở New Orleans.  Tổng thống nói rằng, “Nước Mỹ có thể lấy lại được cảm giác tự hào đã tồn tại trước Việt Nam.  Nhưng nước Mỹ không thể đạt được điều đó bằng cách tái chiến một cuộc chiến đã kết thúc đối với người Mỹ”. Cùng ngày hôm đó, Đại sứ Martin đã gửi điện cho Kissinger rằng sắp đến lúc thực hiện Frequent Wind (Chiến dịch Gió lốc), tức cuộc sơ tán người Mỹ khỏi Sài Gòn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến