Trong khi thảm họa này đang diễn ra, Tướng Trưởng cũng phải đối phó với
các cuộc tấn công của quân Bắc Việt ở phía nam Quân khu I, nơi tình hình không
khá hơn là bao. Sau một số trận chiến ác liệt, Sư đoàn 2 VNCH, được tăng cường
thêm Nhóm Biệt động 12 và do Chuẩn tướng Tướng Trần Văn Nhựt chỉ huy (cựu tỉnh
trưởng Bình Long và là một trong những anh hùng của Trận An Lộc năm 1972), đã
chặn đứng cuộc tấn công của quân Bắc Việt vào Tam Kỳ, thủ phủ của tỉnh Quảng
Tín; nhưng vào ngày 24 tháng 3, Lữ đoàn Độc lập 52 của Sư đoàn 711 quân Bắc Việt
đã tấn công một lần nữa với các đơn vị thiết giáp tăng cường. Đến trưa, thành
phố đã rơi vào tay Cộng sản. Trưởng đã ra lệnh cho Trung đoàn 2 của Sư đoàn 3
VNCH đến Quảng Tín để hỗ trợ việc rút quân khỏi Tam Kỳ. Như đã xảy ra ở những
nơi khác, chiến dịch trở nên khó khăn hơn do hàng nghìn thường dân di chuyển về
phía bắc ra khỏi khu vực để đi đến nơi được cho là an toàn là Đà Năng. Ngoài
ra, lính đặc công và trinh sát tiền tiêu pháo binh Bắc Việt có thể đã tiếp cận
được thành phố bằng cách gia nhập với đoàn người tị nạn. Xa hơn về phía nam trong Quân khu I, quân Bắc Việt đã tăng cường tấn công
vào tỉnh Quảng Ngãi, cắt đứt Quốc lộ 1 giữa thành phố Quảng Ngãi và Chu Lai.
Khi TQLC và Sư đoàn 1 VNCH ở phía bắc rút khỏi Huế và cố gắng thoát xuống đảo
Vĩnh Lộc, Trưởng đã ra lệnh cho Sư đoàn 2 cùng với lực lượng địa phương quán Quảng
Ngãi và gia đình của họ, di chuyển đến bờ biển, nơi họ sẽ được đón và đưa đến Đảo
Ré, ngoài khơi cách Chu Lai hai mươi dặm. May mắn thay, cuộc di tản bằng đường
biển này thành công hơn cuộc di tản ở phía bắc. Trong khi đó, tình hình ở Đà Nẵng đã xấu đi đáng kể. Từ phía bắc, các sư
đoàn quân Bắc Việt 324B và 325C, được tăng cường thêm một trung đoàn xe tăng và
hai trung đoàn pháo binh, đã tấn công dọc theo Thung lũng Voi vào sườn phía tây
của thành phố.Từ phía nam, sư đoàn 711
và 304, được tăng cường bởi lực lượng Mặt trận 44, đã tấn công các thị trấn Dục
Đức và Đại Lộc. Khi quân Bắc Việt tấn công Đà Nẵng từ mọi phía, quần chúng, cả
quân đội và dân sự, bên trong thành phố trở nên hoàn toàn hỗn loạn. Vào thời điểm
này, thành phố 300.000 người đã bị tràn ngập gần 2 triệu người tị nạn từ Quảng
Trị, Huế và Quảng Tín, tất cả đều kêu gào muốn thoát ra. Hàng ngàn kẻ lang
thang và kẻ đào ngũ trấn lột dân tị nạn và cướp bóc thành phố chỉ làm tăng thêm
sự hỗn loạn và hoảng loạn. Một sĩ quan cấp cao từ Quân đoàn I sau này nhớ lại rằng
lúc đó Đà Nẵng đã “bị những cơn co giật của sự cuồng loạn tập thể xâm chiếm.” Hậu
quả là, theo người thay thế Tướng Murray trong cơ quan DAO Sài Gòn, Thiếu tướng
Homer Smith, “sự hỗn loạn ở Đà Nẵng vượt quá lý trí đã thực sự tước đoạt quyền
kiểm soát thành phố biến nó thành một nơi vô chính phủ.” Mọi trật tự và kỷ luật
bị phá vỡ. Một nỗ lực dàn dựng một cuộc không vận lớn đã thất bại khi hàng đoàn
người tị nạn tràn ngập sân bay và vây quanh các máy bay khi chúng cố gắng cất
cánh; hơn 200 máy bay đang hoạt động sau đó đã bị bỏ lại tại sân bay. Từ Sài Gòn, Thiệu đã cố gắng tập hợp lực lượng của mình. Vào ngày 26
tháng 3, ông đã lên đài phát thanh và ban hành nhật lệnh thúc giục binh lính của
mình ngăn chặn kẻ thù tiến lên “bằng mọi giá” và yêu cầu rằng “tất cả các lệnh
chiến đấu phải được thực hiện nghiêm ngặt. . . . Tất cả các bạn phải quyết tâm
và mạnh mẽ như một pháo đài mà những kẻ xâm lược, bất kể chúng có tàn bạo và cuồng
tín đến đâu, cũng sẽ không thể làm lung lay.Những kẻ xâm lược cuối cùng sẽ bị đánh bại. Tôi đã dẫn dắt các bạn vượt
qua nhiều hoàn cảnh nguy hiểm trong quá khứ. Lần này, tôi lại ở bên các bạn
và,cùng với các bạn, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng!” Thật dễ hiểu, quân đội
và nhân dân ở Quân đoàn I không ai còn buồn tập hợp nữa. Lời kêu gọi của Thiệu
rơi vào hư không Dù sao thì vào ngày 28 tháng 3, Tướng Trưởng cũng đã họp lại với các chỉ
huy của mình tại sở chỉ huy Quân đoàn I để cố gắng khôi phục trật tự và xây dựng
một tuyến phòng thủ cuối cùng cho thành phố. Một lần nữa, tính đoàn kết của đơn
vị đã hoàn toàn tan rã và nhiều đơn vị đã không còn tồn tại như những lực lượng
chiến đấu có sức thuyết phục. Tham mưu trưởng của Tướng Trưởng sau đó đã báo
cáo rằng “ngay cả tại sở chỉ huy Quân đoàn I, nhiều người lính đã đào ngũ. Những
lính tài xế của chúng tôi, những liên lạc viên của chúng tôi, sĩ quan từ ban chỉ
huy đại đội, họ cũng đã đào ngũ.” Đến 14h00, lực lượng địa phương quân trấn giữ
các vòng ngoài của tiền đồn đã bỏ vị trí và gia nhập đám đông ở Đà Nẵng. Đến
đêm, bộ đội Bắc Việt đã tiến vào ngoại ô thành phố. Trong khi đó, quân Bắc Việt
cắt đứt Đường 1 giữa Đà Nẵng và Hội An, do đó cô lập thành phố với phía nam. Khi đêm xuống, lực lượng Bắc Việt đã pháo kích sân bay Đà Nẵng và căn cứ
hải quân. Đồng thời, họ bắn vào sở chỉ huy Quân đoàn I và các cơ sở quân sự
quan trọng khác trong thành phố. Nỗ lực phản pháo bằng pháo 175 mm của Quân đội
Việt Nam Cộng hòa phần lớn không hiệu quả, và quân Bắc Việt tiếp tục bắn vào
thành phố. Dưới đòn tấn công này, các tuyến phòng thủ còn lại của Đà Nẵng đã sụp
đổ và Tướng Trưởng đã gọi Tổng thống Thiệu yêu cầu cho sơ tán ngay khỏi thành
phố. Tướng Viên báo cáo rằng Thiệu, mặc dù rất lo lắng về tình hình, nhưng chần
chừ trả lời đối với yêu cầu của Trưởng. Rõ ràng là tổng thống không muốn một thảm
họa khác như thảm họa ở Tây Nguyên, nhưng giống như những trường hợp trước, ông
đã không chỉ đạo trực tiếp cho tư lệnh Quân đoàn I. Ngay khi Tướng Trưởng cúp
máy, cuộc pháo kích của quân Bắc Việt đã cắt đứt các tuyến giữa Đà Nẵng và Sài
Gòn. Trưởng, tin rằng tình hình là vô vọng, đã quyết định rút những lực lượng
còn lại của mình khỏi Đà Nẵng và ra lệnh di dời quân đội của mình đến ba điểm
lên tàu—cuối Đèo Hải Vân, chân núi Non Nước và rìa cửa sông Hội An.
Nhận xét
Đăng nhận xét