BỎ RƠI VIỆT NAM:
70-KHÔNG CÓ CỨU GIÚP TỪ WASHINGTON
Chính quyền Ford cũng choáng váng trước sự sụp đổ đột ngột của Nam Việt
Nam ở nửa phía bắc đất nước. Vào ngày 22 tháng 3, Tổng thống Ford đã viết thư
cho Thiệu, cam kết rằng ông “quyết tâm ủng hộ Việt Nam Cộng hòa một cách kiên
quyết vào thời điểm quan trọng này. Với mục đích tôn vinh trách nhiệm của Hoa Kỳ
trong tình hình này, tôi… đang tham vấn
khẩn cấp với các cố vấn của tôi về các hành động mà tình hình có thể yêu cầu và
luật pháp cho phép.” Thiệu đã trả lời vào ngày 25 tháng 3, ngay khi Huế bị bỏ lại
cho Cộng sản, với một lá thư của riêng ông mô tả tình hình quân sự là “nghiêm
trọng” và đưa ra lời kêu gọi “Chính phủ Hoa Kỳ phải thực hiện lời cam kết” của
mình là “bảo vệ hòa bình ở Việt Nam.” Ông đặc biệt yêu cầu Ford “ra lệnh một cuộc
không kích B-52 ngắn nhưng mạnh mẽ” nhằm vào lực lượng tập trung và căn cứ hậu
cần của kẻ thù ở Nam Việt Nam và “cung cấp cho chúng tôi các phương tiện cần
thiết để ngăn chặn và đẩy lùi cuộc tấn công.” Ford đã trả lời bằng một lá thư gửi
Thiệu trong đó ông nói: “Ông và người dân của ông có thể tin tưởng vào sự ủng hộ
vững chắc liên tục của tôi và quyết tâm của tôi trong việc làm mọi thứ có thể để
giúp đỡ Việt Nam Cộng hòa. Một lần nữa, tôi tin tưởng rằng những nỗ lực chung của
chúng ta sẽ thành công.” Ford nói thêm rằng ông cần đánh giá trực tiếp tình
hình quân sự ở Nam Việt Nam và ông đang cử Tham mưu trưởng Lục quân Frederick
Weyand đến Sài Gòn.
Theo cố vấn thân cận của mình là Nguyễn Tiến Hưng, Thiệu không ấn tượng với
lời đảm bảo của Ford vì ông tin rằng Ford và các cố vấn của ông đang hạ thấp mức
độ nghiêm trọng của tình hình. Thiệu dần đi đến kết luận rằng tổng thống Mỹ
đang rút lui khỏi các cam kết trước đó. Hưng cho.biết rằng Thiệu phàn nàn:
“Ford dường như không quan tâm. Ông ấy đang đi nghỉ ở Palm Springs trong khi
chúng ta đang hấp hối. Khi nào thì ông ấy sẽ phản hồi?”
Tướng Weyand đến Sài Gòn vào ngày 27 tháng 3. Ông ngay lập tức đến thăm Tổng
thống Thiệu và đảm bảo với ông về “sự ủng hộ kiên định” của Tổng thống Ford.
Ông nói với Thiệu rằng mình đến Sài Gòn để xem xét “các lựa chọn và hành động mở
ra cho Hoa Kỳ để hỗ trợ miền Nam”. Sau khi gặp Đại sứ Martin và Thiếu tướng
Smith, Weyand và đoàn của ông đã dành sáu ngày tiếp theo để đánh giá toàn diện
tình hình quân sự và tiến hành các chuyến đi kiểm tra đến nhiều địa điểm khác
nhau trên khắp miền Nam. Trước khi rời Sài Gòn, Weyand nói với Tổng thống Thiệu,
“Chúng tôi sẽ cung cấp cho ngài sự hỗ trợ mà ngài cần và sẽ giải thích nhu cầu
của ngài với Quốc hội”.
Weyand trở về Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 4 và gặp Tổng thống Ford tại Palm
Springs vào ngày hôm sau. Mặc dù rất bi quan về tình hình, ông nói với Ford rằng
theo ông một khoản tiền và vũ khí nữa có thể giải cứu các mục tiêu của Hoa Kỳ ở
miền Nam. Ông báo cáo rằng chính phủ Việt
Nam Cộng hòa đang trên bờ vực của một thất bại quân sự hoàn toàn, nhưng người
miền Nam đã chiến đấu hết mình với tất cả các nguồn lực có sẵn. Weyand nói rằng họ sẽ không thể chiếm lại được
lãnh thổ đã mất, nhưng với nhiều đạn dược và thiết bị hơn, họ có thể thiết lập
một hệ thống phòng thủ vững chắc xung quanh Sài Gòn. Ông đề xuất Ford đệ trình
một yêu cầu viện trợ bổ sung lên Quốc hội để xin 722 triệu đô la để thay thế vật
tư bị mất trong cuộc rút lui thảm khốc từ Quân đoàn I và II. Số tiền này sẽ được
sử dụng để cung cấp 744 khẩu pháo, 446 xe tăng và xe bọc thép chở quân, hơn
100.000 khẩu súng trường, hơn 5.000 súng máy và 11.000 súng phóng lựu, khoảng
120.000 tấn đạn dược trên bộ và trên không, và khoảng 12.000 xe tải. Với thiết
bị này, theo đánh giá của Weyand, miền Nam có thể trang bị cho 8 sư đoàn bộ
binh và biệt động và 27 trung đoàn độc lập khác được thành lập từ lực lượng
lãnh thổ hiện có—một lực lượng gần bằng lực lượng Cộng sản đang tiến về Sài
Gòn. Weyand cho biết yêu cầu bổ sung, ngoài đáp ứng nhu cầu vật chất của quân
miền Nam, sẽ cung cấp một cú hích tâm lý cho người miền Nam, những người “đang
rất gần bờ vực của nỗi tuyệt vọng và chủ nghĩa chủ bại có thể nhanh chóng làm sụp
đổ toàn bộ cấu trúc”.
Ngay cả trong chính quyền của Ford, các quan chức cũng không đồng tình về
kế hoạch của Weyand và sự khôn ngoan của bất kỳ nỗ lực nào nhằm có thêm viện trợ
cho Sài Gòn. Đầu tiên, nhiều cố vấn của tổng thống tin rằng Quốc hội khó có thể
chấp thuận yêu cầu như vậy. Một bản ghi nhớ của chính quyền trong giai đoạn này
nêu rõ: “Tuy nhiên, bất kỳ yêu cầu nào về viện trợ quân sự bổ sung đều có khả
năng bị từ chối thẳng thừng. Có những lời chỉ trích mạnh mẽ về việc QLVNCH bỏ lại
nguồn vật tư quân dụng và lạm dụng phụ nữ và trẻ em trong cảnh hỗn loạn của cuộc
rút lui.” Các nhân viên của Ford, sau khi thăm dò ý kiến Quốc hội, đã thông báo
với tổng thống rằng nhiều nhà lập pháp sẽ không ủng hộ ông; những người khác sẽ
phản bác kịch liệt bất kỳ yêu cầu viện trợ mới nào. Một số cố vấn còn nghi ngờ
rằng liệu người miền Nam có thể cầm cự đủ lâu để viện trợ đến kịp với họ, ngay
cả khi bằng một phép màu nào đó, Quốc hội chịu phê duyệt một phần hoặc toàn bộ
số tiền. Họ đã trích dẫn một đánh giá của Cơ quan Tình báo Quốc phòng vào ngày
3 tháng 4 cho rằng miền Nam chỉ còn sống đến ba mươi ngày.
Một khuyến cáo khác đến từ nhiếp ảnh gia Nhà Trắng David Kennerly, người
đã đi cùng Weyand đến miền Nam. Sau khi trở về, ông đã vào gặp tổng thống một
cách riêng tư. Sau khi để Weyand ở Sài Gòn và đi thực tế “nội địa” để tự mình
xem những gì đang xảy ra, Kennerly đã đánh giá tình hình khác nhiều so với
Weyand. Cũng đã bay đến Campuchia, ông rất
buồn trước những gì ông đã chứng kiến ở hai quốc gia này. Tại Nha Trang, khi
đi quan sát trên chuyến bay của quân đội miền Nam, Kennerly đã bay qua một con
tàu do bọn lính VNCH nổi loạn chiếm giữ, chúng đã chĩa súng bắn vào trực thăng
của ông. Tại Campuchia, ông đã chứng kiến những bệnh viện đầy binh lính và
thường dân. Ông nói với tổng thống: “Campuchia đã không còn nữa và tôi không
quan tâm các tướng lĩnh nói gì với ngài; họ đang nói dối ngài nếu họ nói rằng
Việt Nam còn hơn ba hoặc bốn tuần nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, nó sẽ không
kéo dài bao lâu nữa.”
Bất chấp đánh giá của Kennerly và những cố vấn tổng thống khác nghi ngờ
tính khả thi của việc cố gắng xin thêm tiền cho Sài Gòn, Kissinger, luôn lưu
tâm đến tính biểu tượng của các hành động của Mỹ, đã thúc giục Ford yêu cầu
toàn bộ 722 triệu đô la do Tướng Weyand đề xuất để gửi một tín hiệu không chỉ đến
miền Nam mà còn đến các đồng minh khác của Mỹ trên toàn thế giới rằng Hoa Kỳ
luôn tuân thủ các cam kết của mình.
Với thảm họa đang diễn biến ở miền Nam, Ford đã phải đối mặt với một cuộc
chiến khó khăn để thuyết phục Quốc hội phân bổ thêm tiền cho lực lượng của Thiệu.
Vào ngày 3 tháng 4, tổng thống Mỹ đã gợi ý trong một cuộc họp báo rằng 55.000
sinh mạng người Mỹ đã bị phí phạm vì Quốc hội từ chối thực hiện các cam kết
theo các điều khoản của Hiệp định Paris. Ông tuyên bố “Tôi nghĩ rằng người dân
Mỹ phải đưa ra phán quyết về việc ai có lỗi hoặc lỗi ở đâu”. Không có gì đáng
ngạc nhiên khi nhận xét của ông khiến nhiều người trong Quốc hội tức giận. Thượng
nghị sĩ Robert C. Byrd (Dân chủ-WV) cho biết, “Một số cam kết được bịa ra khi
không có cam kết nào tồn tại, và sau đó Quốc hội bị đổ lỗi vì không thực hiện
những cam kết đó”. Vào ngày 8 tháng 4, Thượng nghị sĩ Henry Jackson (Dân chủ-WA)
cáo buộc rằng Nixon đã đưa ra “những thỏa thuận bí mật bằng văn bản” mà không
tham khảo ý kiến của Quốc hội và yêu cầu cho biết bản chất của những lời hứa
này. Chính quyền Ford trả lời rằng Nixon không hứa bất cứ điều gì riêng tư mà
ông đã không hứa nhiều lần trước công chúng. Điều này đúng theo mức độ Ford biết
vào thời điểm đó, bởi vì bằng chứng hiện có cho thấy bản thân vị tổng thống mới
vẫn chưa xem hết toàn bộ thư từ của Nixon với Thiệu. Bất chấp lời giải thích của
Ford, nhiều người trong Quốc hội đã tin rằng một thỏa thuận bí mật đã được ký kết
với Thiệu.
Nhận xét
Đăng nhận xét