Lực lượng Bắc Việt đã kiểm soát toàn bộ miền Nam vào ngày 3 tháng 5 năm
1975. Chỉ 55 ngày sau cuộc tấn công đầu tiên vào Ban Mê Thuột vào ngày 10 tháng
3, lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa đã hoàn toàn sụp đổ, dẫn đến thất bại
hoàn toàn của một đội quân một triệu người, mất 5 tỷ đô la vũ khí và thiết bị,
và sự sụp đổ của miền Nam như một quốc gia có chủ quyền và độc lập. Sau khi chiến
tranh kết thúc, nhiều lý thuyết và các lý giải khác nhau đã xuất hiện về cách
thức và lý do tại sao miền Nam đã đánh thua cuộc chiến. Nhiều người đã chỉ
trích Hiệp định Hòa bình Paris có sai sót nghiêm trọng, dẫn đến thất bại của miền
Nam khi cho phép 100.000 quân Bắc Việt ở lại miền Nam sau lệnh ngừng bắn. Những
người khác, cho rằng Sài Gòn có thể tránh được thảm họa nếu có sự hỗ trợ tiếp tục
của Hoa Kỳ, cáo buộc Mỹ đã bỏ rơi miền Nam. Những người có lập trường này đổ lỗi
cho Quốc hội Mỹ vì đã từ chối phân bổ kinh phí cho viện trợ quân sự bổ
sung.Những người khác cho rằng Nixon, nếu
vẫn tại vị và không bị mất uy tín bởi vụ bê bối Watergate, sẽ phản ứng mạnh mẽ
trước các động thái quân sự của Bắc Việt vào năm 1975. Tất cả những quan điểm
này đều có một số giá trị, nhưng tất cả đều có thể tranh cãi. Bởi vì vấn đề bao
quát về lý docuộc chiến lại thất bại
khó thể được giải quyết, ta thử giải quyết vấn đề hạn hẹp hơn ở đây là trả lời
câu hỏi liệu việc Việt Nam hóa, như một chính sách, có góp phần vào sự sụp đổ của
miền Nam hay không. Bất kỳ đánh giá nào về việc Việt Nam hóa đều phải diễn ra ở hai cấp độ. Cấp
độ trước tiên của phân tích liên quan đến mục đích đã nêu của chương trình.
Nixon muốn “đảo ngược việc ‘Mỹ hóa’ cuộc chiến… rút nửa triệu quân khỏi Việt
Nam theo cách không gây ra sự sụp đổ ở miền Nam… đàm phán một lệnh ngừng bắn và
một hiệp ước hòa bình”. Rốt cục, ông mong muốn rút Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam và đạt
được “hòa bình trong danh dự”.Xét một
cách khách quan (đặc biệt là nếu là người Mỹ chứ không phải người miền Nam), Việt
Nam hóa đã làm được điều đó. Quân đội Hoa Kỳ đã rút lui, một hiệp ước hòa bình
đã được ký kết, một lệnh ngừng bắn (mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn) đã
được khởi xướng, và miền Nam đã tồn tại thêm hai năm nữa. Một báo cáo năm 1980
của tổ hợp BDM về những bài học chiến lược rút ra được trong Chiến tranh Việt
Nam đã lưu ý: “Dựa trên các mục tiêu do Chính quyền Nixon đặt ra (tức là rút
quân đội Hoa Kỳ khỏi VNCH và đưa ra một giải pháp đàm phán cho cuộc chiến), Việt
Nam hóa phải được coi là một thành công”. Tuy nhiên, báo cáo đó đã thừa nhận theo cách quá nhẹ nhàng rằng Hoa Kỳ cuối
cùng đã bị cản trở trong mục tiêu Việt Nam hóa của mình là tăng khả năng ngăn
chặn kẻ thù của quân đội miền Nam. Những quan sát viên khác thì kém tử tế hơn
nhiều.Một số cho rằng Việt Nam hóa đã
mang lại cho Hoa Kỳ một phương cách không bẽ mặt nhằm thoát khỏi cuộc chiến
không thể thắng và Hiệp định Paris được ký kết nhằm đạt được một “khoảng thời
gian hợp lý” sau khi Hoa Kỳ rời đi trước khi miền Nam đầu hàng một cách không
thể tránh khỏi. Một trong những người chỉ trích gay gắt nhất về chính sách này
là chuẩn tướng quân đội đã nghỉ hưu Douglas Kinnard, ông đã viết vào năm 1985 rằng
“khi người dân Hoa Kỳ xem thảm họa trên truyền hình vào mùa xuân năm 1975, họ
đã thấy một sự kiện có nhiều nguyên nhân. Chỉ cần kết luận ở đây rằng nếu trước
đó chưa đủ rõ ràng, thì cuộc tháo chạy cuối cùng đã phơi bày sự gian lận và lừa
dối của việc Việt Nam hóa”.Một nhà sử học
khác, Joan Hoff, cũng chỉ trích Việt Nam hóa, khẳng định rằng nó “dẫn đến sự mở
rộng được che đậy cũng như công khai của cuộc chiến tranh ở Đông Dương, một kết
quả mà cả những người phản đối và những người ủng hộ khái niệm này trong những
tháng đầu tiên của chính quyền mới đều không lường trước được.” Cả hai đánh giá
này đều chỉ trích Nixon và các khía cạnh chính trị của chính sách Việt Nam hóa.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng chính quyền Nixon đã thừa hưởng tình hình ở Việt Nam [từ
chính quyền Johnson của đảng Dân chủ]. Mặc dù không còn nghi ngờ gì nữa chính
sách của Nixon, khi được thực thì rốt ráo, là có sai sót, nhưng Việt Nam hóa đã
phải chịu thất bại vì một số lý do—một số lý do là do cách chính quyền Nixon thực
thi chính sách, nhưng cũng có một số lý do phát huy tác dụng từ lâu trước khi
Richard Nixon nhậm chức. Tại sao Việt Nam hóa lại thất bại. Những lý do cơ bản
nào dẫn đến sự sụp đổ của một lực lượng mà Hoa Kỳ đã tốn nhiều thời gian, công
sức và tiền bạc? Lý do đầu tiên trong hai lý do chính liên quan đến thời điểm thi hành
chính sách Việt Nam hóa; lý do thứ hai, có liên quan chặt chẽ đến lý do đầu
tiên, là nỗ lực định hình quân đội miền Nam mô phỏng theo hình ảnh của quân đội
Hoa Kỳ.Việt Nam hóa, với tư cách là một
chính sách chính thức, chỉ được thiết lập từ năm 1969. Một cuộc khảo sát năm
1974 đối với các sĩ quan cấp tướng của Hoa Kỳ cho thấy hầu hết dường như đều chấp
thuận chương trình Việt Nam hóa nhưng tin rằng Washington đã đợi quá lâu để bắt
đầu. Hoa Kỳ đã tiến hành hoạt động cố vấn quân sự kể từ những năm 1950, nhưng
sau khi lực lượng tác chiến quy ước quy mô lớn của Hoa Kỳ bắt đầu triển khai ở
miền Nam vào năm 1965, hoạt động cố vấn đã đóng vai trò thứ yếu. Với sự khởi đầu
chính thức của kế hoạch Việt Nam hóa vào năm 1969, con lắc đã chuyển sang giai
đoạn cải tổ quân đội miền Nam; thật không may, lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút lui
nhanh hơn thời gian quân miền Nam có thể cải tiến. Sự thay đổi trọng tâm từ các
hoạt động chiến đấu quy mô lớn của Hoa Kỳ sang việc chuẩn bị cho miền Nam gánh
vác gánh nặng chiến đấu đã diễn ra quá muộn.Với quá nhiều vấn đề tồn tại lâu dài trong quân đội miền Nam, rất ít điều
có thể đạt được trong khoảng thời gian tương đối ngắn giữa lệnh của Nixon ban
ra về Việt Nam hóa chiến tranh và cuộc rút quân cuối cùng của Hoa Kỳ. “Kẽ hở lớn
nhất của chương trình Việt Nam hóa là không cung cấp cho VNCH đủ thời gian để cải
tổ toàn diện,” cựu tướng QLVNCH Nguyễn Duy Hinh đã viết. “Chương trình được khởi
xướng từ những cân nhắc chính trị của Hoa Kỳ, và được thực hiện quá vội vàng. Mặc
dù có thể đạt được sự gia tăng quân số khá nhanh chóng, nhưng gần như không thể
phớt lờ chất lượng và khả năng kỹ thuật của một lực lượng quân sự gồm một triệu
người trong vòng vài năm.” Hinh đã đúng. Thật vậy, những bình luận của ông không chỉ áp dụng cho
chương trình Việt Nam hóa chính thức, mà còn cho toàn bộ nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm
huấn luyện lực lượng vũ trang Nam Việt Nam kể từ những ngày đầu tiên Hoa Kỳ
tham gia vào Đông Nam Á.Nhiều vấn đề
góp phần vào sự sụp đổ năm 1975 có thể khắc phục được bằng cách thiết lập một
cách tiếp cận có tính toán hơn đối với việc “Việt Nam hóa” chiến tranh trong những
ngày đầu của cuộc xung đột. Điều này đúng về khía cạnh đặt nặng việc đào luyện
chỉ huy và loại binh chủng nào cần phát triển. Mặc dù các bằng chứng sau đó đã chứng minh rằng miền Nam chủ yếu đối phó
với một cuộc nổi loạn nội bộ vào thời gian đầu của cuộc xung đột, trọng tâm của
những hoạt động cố vấn đầu tiên của Hoa Kỳ là xây dựng một lực lượng quy ước của
miền Nam để đẩy lùi một cuộc xâm lượckiểu
Triều Tiên từ phía Bắc. Do đó, thay vì kết cấu một lực lượng bao gồm các đơn vị
địa phương nhỏ, cơ động có thể chống lại quân nổi dậy du kích, thì quân đội miền
Nam lại đã trở thành một hình ảnh phản chiếu của Quân đội Hoa Kỳ những năm 1960
với các sư đoàn nặng nề và quáphụ thuộc
vào hỏa lực và công nghệ. Báo cáo của Tập đoàn BDM năm 1980 về các bài học chiến lược đã học được
trích dẫn một số lý do cho cách tiếp cận sai lầm này đối với việc xây dựng quân
đội miền Nam. Trong số đó, lý do chính là không học được từ kinh nghiệm của
Pháp, không nhận thức được tính nghiêm túc của mối hiểm họa chống nổi loạn, sự
tương đồng hời hợt với kinh nghiệm của Hàn Quốc khiến người Mỹ tin rằng các chiến
thuật có thể được chuyển giao, và sự tự tin thái quá quen thuộc có xu hướng phớt
lờ tiếng nói của người Việt và không cổ vũ việc nghiên cứu cẩn thận tình hình.
Lặp lại những phát hiện này, nhà phân tích quân sự Andrew Krepinevich Jr. cáo
buộc trong cuốn Quân đội và Việt Nam rằng Quân đội Hoa Kỳ “chỉ nói suông về học
thuyết chống nổi loạn” và khăng khăng tiến hành chiến tranh ở miền Nam giống
như họ đang tham gia một cuộc xung đột quy ước trên đồng bằng châu Âu. Cách tiếp
cận này đã có tác động to lớn đến nỗ lực xây dựng một lực lượng miền Nam khả
thi.Không thoải mái với cách tiếp cận
chống nổi loạn “mới” và tin rằng bản chất của cuộc xung đột ở miền Nam chủ yếu
là một cuộc xâm lượctừ miền Bắc, các
nhà lãnh đạo Quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu xây dựng một lực lượng xung quanh cái
mà Krepinevich gọi là “khái niệm” hoặc “chiến tranh đơn vị lớn” dựa trên trực
thăng, hỏa lực mạnh và việc làm tiêu hao lực lượng địch. Ngay từ những ngày đầu
thành lập, QLVNCH đã nhận được rất ít loại huấn luyện chống nổi loạn từ các cố
vấn Hoa Kỳ, vốn là thành viên của Quân đội Hoa Kỳ chính quy và đã được đào tạo
theo hệ thống đó.Do đó, việc xây dựng một
đội quân trông giống và chiến đấu như Quân đội Hoa Kỳ vẫn là động lực cho các nỗ
lực cố vấn ban đầu và tiếp tục theo chương trình Việt Nam hóa từ khi chính thức
hóa vào năm 1969 cho đến khi Hoa Kỳ rút quân vào năm 1973. Cách tiếp cận của
người Mỹ chắc chắn có ý nghĩa hơn trong giai đoạn sau của cuộc chiến so với
giai đoạn đầu của cuộc xung đột. Tuy nhiên, kết quả chung là một lực lượng rất
tốn kém, chủ yếu dành cho phòng thủ tĩnh và phụ thuộc vào công nghệ và số lượng
lớn đạn dược và các loại quân trang quân dụngkhác. Như nhà sử học Gabriel Kolko sau này đã viết, “QLVNCH sớm có tất cả
các điểm yếu của công nghệ Hoa Kỳ và ít ưu điểm của nó”; do đó, công nghệ trở
thành nguồn phụ thuộc và gây mất tập trung cho QLVNCH. Một khi đã xác định được hướng đi ban đầu, thì quân miền Nam không thể đi
ngược lại.Đến khi xuất hiện bằng chứng
thuyết phục rằng mối đe dọa trước mắt là có tính nội chiến chứ không phải là vấn
đề tấn công xuyên biên giới, thì đã quá muộn để có thể thay đổi lớn về cơ cấu lực
lượng miền Nam và khái niệm tác chiến. Thật trớ trêu, khi quân Bắc Việt chuyển
sang chiến thuật kiểu quy ướcvào giai
đoạn sau của cuộc chiến và bắt đầu đưa một số lượng lớn quân tác chiến vào miền
Nam, quân miền Nam, vốn từ đầu được huấn luyện để chiến đấu theo kiểu chiến
tranh đó, đã tỏ ra vô cùng thiếu xót cho nhiệm vụ này. Sau khi trở nên phụ thuộc
quá nhiều vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, miền Nam tỏ ra không có khả năng tiếp tục
chiến tranh khi không còn sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nữa. Những vấn đề liên quan đến việc xây dựng năng lực quân sự miền Nam vững mạnh
đã trở nên phức tạp hơn khi quân tác chiến Hoa Kỳ đến VN vào năm 1965. Các lực
lượng Hoa Kỳ đã đến chiến trường, sẵn sàng dấn thân trong một “trận chiến lớn”
chống lại bọn xâm lược miền Bắc.Kết quả
là, miền Nam gần như bị gạt sang một bên và bị đẩy xuống vai trò hỗ trợ; vì nhiều
chỉ huy Hoa Kỳ có cảm nhận là chỉ riêng lực lượng Hoa Kỳ là có thể đánh bại Cộng
sản, sự tham gia của QLVNCH chỉ là tối thiểu. Khi người Mỹ đến, “người dân bản
địa” về cơ bản được bảo đứng yên và hãy nhìn xem và học hỏi những người chuyên
nghiệp. Như cựu đại sứ Bùi Diễm đã nói, “Việt Nam hóa bắt đầu vào năm 1965,
không phải năm 1968, nhưng người Mỹ chưa bao giờ thực hiện được vì họ mong đợi
chiến thắng đến sớm không cần có sự tham gia của người Việt Nam.” Chủ nghĩa dân
tộc như vậy đã thúc đẩy một sự tự tin sai chỗ, làm mất uy tín không chỉ miền
Nam mà còn cả những nỗ lực trước đó của người Pháp. Tính kiêu ngạo của người Mỹ
đã ảnh hưởng bất lợi đến tinh thần và động lực của người miền Nam.Một cựu sĩ quan QLVNCH đã viết sau chiến
tranh rằng “những trận chiến mà người Mỹ đã chiến đấu rất ngoạn mục với hỏa lực
áp đảo và đội hình rầm rộ đã thu hút sự chú ý của giới báo chí. . . . Kết quả tất
nhiên là ấn tượng nhưng sai lầm ở chỗ người Mỹ đang giành làm hết công việc chiến
đấu cho người miền Nam. Điều này đã cung cấp cho người Cộng sản nhiều vũ khí
tuyên truyền hơn cho cuộc chiến chính trị của họ: ‘Việt Cộng đã chiến đấu với
người Mỹ để cứu nhân dân Việt Nam.’ Đó là một phát ngôn rất hiệu quả; nó thậm
chí còn thuyết phục được rất nhiều người Mỹ.” Vào thời điểm Nixon nhậm chức và
khởi xướng chương trình Việt Nam hóa, nền tảng cho thảm họa đã được xây dựng. Đại
tá Vũ Văn Ước, cựu sĩ quan chỉ huy tác chiến của không quân miền Nam, bình luận:
“Ngay cả trong các hoạt động chung giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, QLVNCH chỉ được
giao một vai trò nhỏ và . . . chiến thuật được đặt dưới sự giám sát của các cố
vấn Hoa Kỳ. Trong tình hình đó, QLVNCH cảm thấy quá lệ thuộc vào lực lượng Hoa
Kỳ và người ta khó có thể nói rằng các hoạt động này nằm trong thẩm quyền của
Việt Nam. . . . do đó, QLVNCH hoàn toàn đánh mất khái niệm mình là một đạo quân
độc lập.” Khi lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút lui, Tướng Abrams và MACV đã được giao
nhiệm vụ cho thấy là không thể hoàn thành là cố gắng chuẩn bị cho miền Nam Việt
Nam sẵn sàng chịu trách nhiệm cho cuộc chiến.Nhận thức được những vấn đề tồn tại lâu dài trong quân đội miền Nam vốn
phải mất nhiều năm mới có thể giải quyết, người Mỹ chỉ tập trung vào giải pháp
dễ dàng nhất: tăng cường lực lượng quân miền Nam về mặt nhân lực và trang thiết
bị, vũ khí tinh vi. Nỗ lực này đã tạo ra một trong những lực lượng quân sự mạnh
nhất thế giới, ít nhất là về mặt quân số. Tuy nhiên, như Tướng Phillip Davidson
đã chỉ ra trong cuốn Chiến tranh Việt Nam, “Một đội quân như vậy có thể cải tiến
về vẻ bề ngoài khi trang bị và huấn luyện từ nước ngoài tiêu xài phí phạm cho
nó , nhưng sự cải tiến như vậy là lừa dối, vì nền tảng của lực lượng vẫn còn mục
nát”. Thật trớ trêu, việc mở rộng lực lượng, từ lâu được coi là thước đo “thành
công” của nỗ lực Việt Nam hóa, chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề, dẫn đến sự suy
giảm tỷ lệ binh lính thực sự biết chiến đấu trong các đơn vị.Việc mở rộng QLVNCH đã làm suy giảm chất lượng,
làm loãng năng lực của các đơn vị và làm quá tải một số ít sĩ quan tài giỏi,
như được minh họa bằng việc thành lập và giải thể sau đó của Sư đoàn QLVNCH số
3, đơn vị này đã sụp đổ trước cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt vào Quảng Trị
năm 1972. Cùng với việc mở rộng QLVNCH là nỗ lực cố vấn được cải thiện nhằm tăng cường
sự tham gia của QLVNCH vào việc bảo vệ quốc gia của họ. Thật không may, việc tập
trung nhiều hơn vào nỗ lực cố vấn, mặc dù có thể là có ý định tốt, đã gây ra một
số hậu quả không lường trước được. Bửu Viên, một cố vấn cá nhân thân cận của Tổng
thống Thiệu, đã nói sau chiến tranh: “Sự hiện diện của các cố vấn Hoa Kỳ ở mọi
cấp bậc trong hệ thống quân sự đã tạo ra trong giới lãnh đạo Việt Nam một tâm
lý phụ thuộc vào lời khuyên và gợi ý của họ.Mặc dù một số sĩ quan miền Nam không thích sự hiện diện lấn lướt của người
đồng cấp Mỹ, hầu hết họ đều cảm thấy tự tin hơn khi có cố vấn bên cạnh. Những ý
tưởng có thể là của họ, nhưng họ cảm thấy an tâm hơn khi những ý tưởng đó được
các cố vấn người Mỹ đồng tình hơn là khi chúng được cấp trên của họ đề xuất.” Bảo Long, một cựu sĩ quan QLVNCH, nói với nhà báo Paul Hendrickson: “Người
Mỹ đã đến và tiếp quản và đẩy chúng tôi sang một bên. Chúng tôi đã mất đi bản sắc
của mình.” Theo một cựu tướng lĩnh QLVNCH, bản sắc không phải là thứ duy nhất bị
mất khi các cố vấn tiếp quản: Quyền lực và ảnh hưởng của các cố vấn Hoa Kỳ trên chiến trường có xu hướng
làm lu mờ vai trò của các chỉ huy đơn vị Việt Nam. Ví dụ, các hoạt động của một
đơn vị có xu hướng tuân theo các đường lối do cố vấn đề xuất.Trong nhiều trường hợp, chính cố vấn là người
đem đến thắng lợi trong trận chiến bằng cách kêu gọi hỗ trợ hỏa lực hoặc không
quân chiến thuật hiệu quả từ các nguồn lực của Hoa Kỳ. Điều này dần dần tạo ra
sự phụ thuộc quá mức và đôi khi là hoàn toàn vào các cố vấn Hoa Kỳ. Do đó, sáng
kiến, trách nhiệm và uy tín mà chỉ huy đơn vị thường nắm giữ bị ảnh hưởng rất
nhiều và về lâu dài, sự hiện diện của các cố vấn đã khiến các sĩ quan QLVNCH mất
đi cơ hội phát triển khả năng chỉ huy và lãnh đạo của mình Các sĩ quan miền Nam không phải là những người duy nhất có quan điểm này;
một vị tướng Hoa Kỳ, trả lời nghiên cứu của Tướng Kinnard năm 1974, đã nói: “Có
quá nhiều cố vấn. Kết quả là, các cố vấn trở thành người điều hành và chuyển hướng
năng lượng của các đối tác QLVNCH khỏi nhiệm vụ chính của họ và đồng thời để lại
ít động lực cho các chỉ huy thực hiện hành động của riêng mình.” Tướng Melvin
Zais, cựu chỉ huy Sư đoàn Không vận 101 tại Việt Nam, có lẽ đã nói rõ nhất: Chúng ta không giỏi làm việc với người Việt Nam và tôi bắt đầu thấy bất
mãn trong lòng, tự nghĩ, “Cuộc chiến này sẽ không bao giờ kết thúc cho đến khi
người Việt Nam đủ giỏi để giành chiến thắng. Chúng ta hẳn phải tách mình ra khỏi
công việc, nhưng chúng ta không làm vậy. Chúng ta không huấn luyện đội;chúng ta giống như năm cầu thủ bóng bầu dục đại
học xuống để huấn luyện một đội bóng trung học và đã tự sắp xếp mình vào đội
hình.. . .đến lúc chúng ta không được
chơi nữa và QLVNCH sẽ phải tiếp quản. Khi thời điểm đó đến, lực lượng Hoa Kỳ đã không làm tốt công tác chuẩn bị
cho QLVNCH tiếp quản. Cựu quan chức CIA Douglas Blaufarb đã viết rằng “sự hoảng
loạn” của giới lãnh đạo Việt Nam trước sự suy giảm hỗ trợ của Hoa Kỳ “gây ra bởi,
người ta chỉ có thể giả định, việc tập thể sĩ quan Việt Nam bỗng nhận thức được
rằng họ chưa thực sự chuẩn bị tốt cho nhiệm vụ của mình. Trong phân tích cuối
cùng, những người đã thực hiện trò hề này chưa bao giờ bị nó đánh lừa.”Blaufarb nói thêm, chỉ có người Mỹ bị lừa dối,
“chủ yếu là do họ không biết gì về thực tế chính trị của một vùng đất mà họ đã
sống và làm việc trong nhiều năm mà không biết được những sự thật cơ bản nhất về
bối cảnh xung quanh họ.” Bất chấp những nỗ lực đầy tham vọng nhằm xây dựng quân đội miền Nam và
tăng cường nỗ lực cố vấn, thực tế chính trị mà Blaufarb ám chỉ phản ánh những vấn
đề có tính hệ thống lâu đời trong xã hội và quân đội miền Nam đã làm giảm khả
năng thành công trong việc Việt Nam hóa chiến tranh và biến miền Nam thành một
lực lượng chiến đấu khả thi. Tham nhũng, bắt đầu từ đỉnh cao của xã hội, đã thấm
nhuần vào mọi tầng lớp xã hội và có tác động tàn phá đến quân đội. Nó hủy hoại
tinh thần và sức chiến đấu, góp phần vào tỷ lệ đào ngũ cao ngất ngưởng và làm
suy yếu nghiêm trọng toàn bộ cấu trúc năng lực tác chiến của miền Nam Bản chất chính trị của hệ thống phân cấp quân đội làm trầm trọng thêm
tình trạng tham nhũng tàn khốc.QLVNCH
thực chất là sự mở rộng của bộ máy chính trị của Thiệu; do đó, mục đích thực sự
của quân đội không phải là quân sự mà là chính trị. Các chỉ huy chủ chốt là những
người được bổ nhiệm vì lý do chính trị, vì lòng trung thành của họ đối với Thiệu
chứ không phải vì chuyên môn của họ với tư cách là chỉ huy, một thông lệ, theo
Blaufarb, đảm bảo cho tình trạng tham nhũng và bất tài: “Thành tích chiến đấu
không được đền đáp; binh lính không được quan tâm; và những yêu cầu của tinh thần
thượng võ—Nhiệm vụ, Danh dự, Tổ quốc —không được đáp ứng.” Trung tướng Hoàng
Xuân Lãm, chỉ huy trận đánh thảm họa ở Lào, là một ví dụ điển hình về những kẻ
được bổ nhiệm chính trị tham nhũng đã nắm giữ các vị trí chủ chốt. Các tướng
lĩnh của Thiệu cạnh tranh nhau trong việc giành được ân sủng của ông và cả
thành quả của sự tham nhũng, khiến việc tạo ra một cấu trúc chỉ huy tích hợp tập
trung vào việc chiến đấu là điều không thể. Một vị tướng của QLVNCH đã mô tả “sự
bất đồng gần như bất phục tùng” đã ngăn cản bất kỳ chuỗi chỉ huy thuyết phục
nào hoặc khái niệm hoạt động chung. Một yếu tố khác góp phần vào thất bại cuối cùng của Việt Nam hóa và sự sụp
đổ tiếp theo của lực lượng miền Nam là bản thân Thiệu: ông là một tai họa với
vai trò là tổng tư lệnh. Sau khi quân đội Hoa Kỳ rời đi, ông trở nên quá cứng
nhắc, kiểm soát chặt chẽ quân đội và tham gia quá sâu vào các vấn đề tác chiến
mà lẽ ra nên để các chỉ huy trên chiến trường giải quyết. Bị tước đi khả năng
linh hoạt trong việc ra quyết định và ở phía sai lầm của các mệnh lệnh gây nhầm
lẫn và thường xung đột, các chỉ huy quân sự, nhiều người trong số đó lại được bổ
nhiệm vì lập trường chính trị và không phù hợp để chỉ huy các đội hình đơn vị lớn
chống lại một kẻ thù lão luyện như Bắc Việt, đã không đáp ứng được nhu cầu của
thời điểm đó. Sự nhầm lẫn và bất lực này ở cấp cao nhất đã dẫn đến việc thiếu một
chiến lược khả thi. Như một sĩ quan QLVNCH đã giải thích sau chiến tranh, “Việt
Nam hóa thực sự có nghĩa là Mỹ hóa.. . . Không thể quay lại một cuộc chiến
tranh theo kiểu Việt Nam. Nó sẽ phải được tiến hành theo cách của Mỹ. . . . Tất
cả những người tham gia cuộc đấu tranh nhanh chóng nhận ra rằng các yếu tố quan
trọng của lợi thế hỏa lực của miền Nam—sức mạnh không quân và hải quân Hoa Kỳ—sẽ
không còn sử dụng được. Nhưng các nhà lãnh đạo miền Nam đã quá chậm chạp để nhận
ra những sự hoán đổi này trong chiến lược tổng thể.” Do đó, khi Bắc Việt bắt đầu
tăng cường hoạt động sau khi Phước Long thất thủ, Thiệu và các tướng lĩnh của
ông không thể cùng nhau lập ra một kế hoạch phòng thủ để ngăn chặn cuộc tấn
công của Cộng sản. Mệnh lệnh thảm khốc của Thiệu từ bỏ Tây Nguyên đã dẫn đến sự
hoảng loạn và đẩy nhanh chiến thắng của Bắc Việt.
Nhận xét
Đăng nhận xét