BỎ RƠI VIỆT NAM:-63-THẢM HỌA Ở CAO NGUYÊN

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
63-THẢM HỌA Ở CAO NGUYÊN

Sự sụp đổ của Ban Mê Thuột chỉ là màn dạo đầu cho thảm họa tiếp theo. Sự sụp đổ nhanh chóng của tỉnh Darlac ở miền Nam đã làm kinh ngạc giới lãnh đạo miền Bắc. Thiếu tướng BV Trần Côn Mẫn đã nói sau chiến tranh: “Trong cuộc tấn công ở Ban Mê Thuột, chúng tôi đã làm bất ngờ miền Nam. Mặt khác, quân đội miền Nam cũng làm chúng tôi quá bất ngờ, vì họ trở nên rối loạn quá nhanh. Chúng tôi không ngờ điều đó sẽ xảy ra. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng sau cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột, miền Nam sẽ vạch ra một ranh giới ở đó và phản công. Chúng tôi đã mong đợi một trận chiến rất dữ dội và kéo dài với quân miền Nam xung quanh Ban Mê Thuột.”
 
Cũng làm Bắc Việt ngạc nhiên không kém là Mỹ đã không làm gì để hỗ trợ cho QLVNCH đang suy yếu. Tướng Dũng đã nhanh chóng bình tĩnh lại sau nỗi kinh ngạc và nhìn thấy cơ hội lớn lao trước mắt. Ông nhận ra rằng với thất bại của QĐVNCH ở tỉnh Darlac, không có lực lượng miền Nam có tổ chức nào đứng giữa quân đội Bắc Việt và Biển Đông. Dũng đã rất gần với việc cắt miền Nam thành hai, cô lập các đơn vị QLVNCH tại Kontum, Pleiku, Bình Định và xa hơn về phía bắc ở Quân khu I. Để nắm bắt lợi thế, Dũng đã thông báo với Hà Nội rằng mình có kế hoạch chuyển lực lượng về phía bắc để chiếm Pleiku và Kontum.
 
Trong khi Dung lập kế hoạch mới, Thiệu và các tướng lĩnh của ông đã cố gắng quyết định nên làm gì tiếp theo về việc mất Ban Mê Thuột. Họ gặp nhau vào ngày 14 tháng 3 tại Cam Ranh và Thiệu đã hỏi Tướng Phú rằng ông có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Rõ ràng bị mất tinh thần vì những sự kiện gần đây, Phú đã cầu xin tăng viện, nhưng chỉ được trả lời rằng không có. Sau đó, tổng thống miền Nam đã ra lệnh cho Phú “tái triển khai lực lượng hữu cơ [Quân đoàn II] theo cách để chiếm lại Ban Mê Thuột bằng mọi giá.”
 
Phú sửng sốt và lúc đầu nghĩ rằng tổng thống đang nói đùa. Để có được sức mạnh chiến đấu để chiếm lại Ban Mê Thuột, ông sẽ phải rút lực lượng còn lại của mình khỏi Kontum và Pleiku, trên thực tế là từ bỏ những thành phố quan trọng này cho Bắc Việt. Sau khi vượt qua nỗi kinh hoàng về những gì mình đã được lệnh phải làm, Phú nhanh chóng vạch ra một kế hoạch. Vấn đề chính là tìm cách đưa lực lượng của mình từ nơi họ đang ở Kontum và Pleiku đến một vị trí mà họ có thể phản công về phía Ban Mê Thuột. Vì tất cả các tuyến đường khả dụng khác đều bị Bắc Việt chặn, Phú đề xuất sử dụng Tuyến đường 7B, một con đường khai thác gỗ ít được sử dụng chạy dài 200 km về phía đông nam từ Pleiku đến Tuy Hòa trên bờ biển, để giải thoát lực lượng Quân đoàn II khỏi Pleiku trong khi Lực lượng địa phương che chắn việc chuyển quân khỏi lực lượng địch (xem bản đồ 15).
 
Phú bảo ban tham mưu của mình lên kế hoạch bắt đầu cuộc di chuyển hai ngày sau đó. Mỗi ngày trong suốt bốn ngày, một đoàn hộ tống gồm 250 xe sẽ rời Pleiku và di chuyển xuống Tuyến đường 7B đến Tuy Hòa. Nhóm Công binh Chiến đấu số 20 sẽ dẫn đầu đoàn xe đầu tiên, sửa chữa cầu và tân trang lại con đường khi họ di chuyển. Các nhóm Biệt động sẽ đi sau đoàn xe cuối cùng. Trong khi các đơn vị dẫn đầu chuẩn bị di chuyển trên bộ, Không quân Việt Nam sẽ tập trung vào việc di tản máy bay, nhân sự và thành viên gia đình. Trong số những người đầu tiên khởi hành là Tướng Phú và bộ tham mưu của ông, họ được máy bay đưa đến Nha Trang, tại đó họ hy vọng sẽ ngồi lại lập kế hoạch cho cuộc phản công vào Ban Mê Thuột sau khi việc tái bố trí lực lượng ra khỏi Pleiku hoàn tất.
 
Khi Phú rời đi, ông giao tham mưu trưởng của mình, Đại tá Lê Khắc Lý, đi cùng đoàn xe.  Quyền chỉ huy thực tế của đoàn xe được trao cho Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy Quân đoàn II Biệt động, người vừa mới được thăng chức.
 
Tất đang bận chuẩn bị cho sáu nhóm Biệt động của mình di chuyển ra ngoài, vì vậy việc lập kế hoạch cho cuộc rút lui được giao cho Lý. Khi Phú đang chuẩn bị rời đi, Lý hỏi về cách sắp xếp việc di tản lực lượng ĐPQ tại Pleiku. Phú trả lời, “Mặc kệ họ đi. Nếu anh nói với họ về cuộc di tản, anh sẽ không thể kiểm soát được và không thể xuống Tuy Hòa vì tình hình hoảng loạn sẽ xảy ra.”
 
Lực lượng dân quân và địa phương quân, thực sự không được ai thông báo về những gì đang xảy ra, do đó đã không tiến hành hoạt động che chắn được lên kế hoạch. Không có gì ngăn cản quân đội Bắc Việt truy đuổi quân đội miền Nam khi họ vội vã điều quân, và đó chính xác là những gì đã xảy ra.
 
Người Mỹ từ các cơ quan DAO, CIA và các tổ chức khác làm việc tại Pleiku cũng không biết gì về cuộc di tản cho đến khi được Đại tá Lý thông báo vào ngày 15 tháng 3.  Tin tức này được truyền đến Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn, và sau đó đại sứ quán ra lệnh cho tất cả công dân Hoa Kỳ rời khỏi Cao nguyên Trung phần. Động thái của miền Nam đã khiến người Mỹ hoàn toàn bất ngờ, nhưng đến chiều tối, đại sứ quán đã có thể sơ tán 450 nhân viên người Mỹ và Việt Nam của nhiều cơ quan Hoa Kỳ tại Pleiku bằng máy bay Air America.
 
Nhà Trắng, vốn đã lo lắng về việc mất Ban Mê Thuột, giờ ngỡ ngàng trước sự rút quân đột ngột của miền Nam khỏi Pleiku. Đại sứ Graham Martin đang ở nhà riêng tại Bắc Carolina để dưỡng bệnh sau một đợt nhiễm trùng nghiêm trọng do áp xe răng. Khi được phó NSC (Hội đồng An ninh Quốc gia) Brent Scowcroft gọi điện, Martin nói mình biết rằng Sài Gòn có kế hoạch chuyển sở chỉ huy  Quân đoàn II đến Nha Trang, nhưng không biết gì hơn thế. Trước đây, Martin không hề miễn cưỡng báo động khi ông cho là cần thiết. Do đó, khi ông không lên tiếng phản đối quyết định từ bỏ Pleiku, mặc dù lo ngại, nhưng ban đầu chính quyền Ford không quá khích động về diễn biến mới này. Sau này, Ford đã viết trong hồi ký của mình rằng, “Mọi người đều biết các vấn đề ở miền Nam rất nghiêm trọng, nhưng dường như không ai biết mức độ nghiêm trọng của chúng”. Có thể là như vậy ở Washington, nhưng nhiều người ở Việt Nam thừa nhận rằng miền Nam đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Khi việc rút quân khỏi Quân đoàn II diễn ra, Thomas Polgar của Cơ quan Tình báo Trung ương đã gửi điện tín cho Washington nói rằng “trò chơi đã kết thúc”. Bất chấp những đánh giá như vậy, chính quyền Mỹ vẫn tiếp tục nhấn mạnh vào mặt tích cực. Tướng Westmoreland, tham mưu trưởng quân đội, gọi việc tái triển khai là “hành động thận trọng”. Việc chính quyền Mỹ không nhận ra bản chất nghiêm trọng của các sự kiện ở Việt Nam đã thay đổi rất nhanh chóng, và khi cuộc di tản bắt đầu tan vỡ, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc ngày càng lo ngại.
 
 Trong khi người Mỹ cân nhắc đến hậu quả của việc tái triển khai, tình hình trên thực địa tại Quân đoàn II đang trên đà vượt khỏi tầm kiểm soát. Những gì được cho là bắt đầu như một sự tái định vị chiến thuật của lực lượng nhanh chóng bắt đầu trông giống như một cuộc rút lui hoảng loạn. Tin tức về động thái sắp xảy ra đã lan truyền sớm, và một số chỉ huy đã bắt đầu di tản mà không cần chờ lệnh từ Quân đoàn II. Khi chỉ huy lực lượng Biệt động tại Kontum bắt đầu rút quân, tỉnh trưởng đã nhảy lên một chiếc xe jeep và gia nhập đoàn quân đang rời đi, nhanh chóng đụng độ một cuộc phục kích của quân Bắc Việt khiến chỉ huy và một số Biệt động quân tử vong. Tuy nhiên, khi quân Bắc Việt bắt đầu pháo kích Kontum, nhiều binh lính và thường dân đã chạy xuống đường đến Pleiku.
 
Tình hình ở Pleiku cũng không khá hơn. Sự hoảng loạn bùng phát khi Đại tá Lý thông báo cho các chỉ huy đơn vị rằng họ phải chuẩn bị di chuyển. Theo Lý, có hơn một chỉ huy đã hỏi, “Tại sao chúng ta lại rút lui? Chúng ta có thể chiến đấu!  Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Sau này, Lý kể lại rằng đã trả lời, “Tôi đồng ý với anh. Nhưng giờ chúng ta có Tổng thống và Tổng tham mưu trưởng ra lệnh cho chúng ta. Chúng ta là những người chuyên nghiệp. Chúng ta có thể làm gì? Không tuân lệnh họ ư? Tất nhiên là không. Tôi biết điều đó là sai. Nhưng đó là lệnh. Anh có muốn nổi loạn không?”
 
Khi những chỉ huy hung hăng hơn của lực lượng chính quy đặt câu hỏi về lệnh di tản khỏi Kontum và Pleiku, lực lượng địa phương quân và dân quân, bỗng phát hiện một cách đau lòng rằng mình thực sự bị bỏ rơi, liền bắt đầu nổi loạn trên đường phố. Ngay sau đó khi tình hình hỗn loạn gia tăng, lực lượng chính quy cũng bắt đầu hoảng loạn. Theo lời của Đại tá Lý, “Binh lính, gia đình binh sĩ trở nên vô kỷ luật. Binh lính đã hãm hiếp, đốt phá đồ đạc và cướp bóc. Binh lính không tuân theo lệnh được ban ra. Tôi không thể trách họ. Không có kế hoạch nào để chăm sóc những người thân của binh lính.”
 
Giữa cảnh hỗn loạn này, quân đội Bắc Việt bắt đầu pháo kích sân bay. Việc phá hủy các kho đạn dược và khu vực chứa nhiên liệu của những người lính VNCH rời đi chỉ khiến người ta càng thêm tin rằng Pleiku đang trong tình trạng nguy hiểm sắp bị bỏ rơi cho quân Bắc Việt.
 
Khi đoàn xe đầu tiên khởi hành vào đêm ngày 16 tháng 3, cơn hoảng loạn đã lên đến một chiều kích mới. Một phóng viên sau đó đã viết rằng các bác sĩ đã bỏ bệnh viện của họ, cảnh sát cởi bỏ quân phục, những hành động đốt phá và cướp bóc đã diễn ra tràn lan. Dân thường cố vơ lấy những đồ đạc ít ỏi mà họ có thể mang theo và chạy sau quân đội. Một nữ tu Công giáo nhớ lại “trẻ sơ sinh và trẻ em bị chất lên xe bò và kéo đi. Mọi người đều hoảng loạn. Mọi người cố gắng thuê xe bằng mọi giá”.
 
Nỗi tuyệt vọng của dân chúng tìm đường chạy trốn khỏi Pleiku tăng cao khi có tin đồn rằng Thiệu đã thỏa thuận với Hà Nội.  Người ta cho rằng, Hà Nội sẽ đảm bảo tính trung lập của phần còn lại của miền Nam nếu Thiệu từ bỏ các tỉnh phía bắc. Mặc dù tin đồn này không đúng sự thật, nhưng nó vẫn làm tăng thêm sự hoảng loạn của cả quân đội và dân thường. Bằng chứng cho thấy rằng tin đồn này và những tin đồn tương tự đã được gieo rắc bởi các đơn vị tuyên truyền của quân đội Bắc Việt và các đặc vụ Cộng sản xâm nhập vào chính quyền quân sự và dân sự của miền Nam. Bất kể nguồn gốc của chúng là gì, những tin đồn này đã có tác động tàn phá đến các chiến sĩ, họ bắt đầu đặt câu hỏi về giá trị của việc chiến đấu chống lại điều không thể tránh khỏi.
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến