Bài 8 -CHIẾN DỊCH PHAN RANG – XUÂN LỘC [Phần 2]
Bài 8
CHIẾN DỊCH
PHAN RANG – XUÂN LỘC
PHAN RANG – XUÂN LỘC
[Phần 2]
DIỄN BIẾN
CÁC TRẦN ĐÁNH
Các trận đánh tại thượng du miền Đông
Nam Bộ
Một tuần sau khi Chiến
dịch Tây Nguyên 1975 mở màn, Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam mở các trận
đánh trên hướng Tây Ninh - Bình Dương, tiếp tục những mục tiêu mà họ chưa đạt
được vào ba năm trước. Tại đây, QLVNCH không còn tuyến phòng thủ liên hoàn như
năm 1972 do không đủ binh lực và phương tiện chốt giữ. Mặc dù tuyến này không
phải là hướng trọng điểm trong các hướng tiến công của Quân Giải phóng năm 1975
nhưng do vị trí tiếp giáp Sài Gòn từ hướng Tây Bắc nên những trận đánh tại miền
Đông Nam Bộ trong tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975 đã thu hút một phần lớn binh
lực của Quân đoàn III QLVNCH, không cho các lực lượng này được rảnh rỗi để chi
viện cho các hướng khác. Tại Tây Ninh, QLVNCH bố trí 1 sư đoàn bộ binh, (sư
đoàn 25), 2 liên đoàn biệt động quân và 4 chi đoàn thiết giáp. Tại Bình Dương
có 1 sư đoàn bộ binh (sư đoàn 5), 1 liên đoàn biệt động quân và 1 chi đoàn thiết
giáp.
Bộ Tư lệnh quân đoàn 4
Quân Giải phóng quyết định chọn tuyến Dầu Tiếng - Chơn Thành là điểm yếu nhất
trong các cứ điểm phòng thủ từ xa của Quân đoàn III - QLVNCH tại hướng Bắc Tây
Bắc Sài Gòn. QLVNCH bố trí tại đây 4 tiểu đoàn bảo an (35, 304, 312, 352) với
2600 quân, 1 chi đoàn thiết giáp, 10 khẩu pháo 105 mm. Trung tâm phòng ngự của
QLVNCH tại tuyến này là chi khu quân sự Dầu Tiếng nằm ở điểm tiếp giáp ba tỉnh
Tây Ninh, Bình Long và Bình Dương. Khu vực này được cấu trúc thành cụm cứ điểm
kiên cố gồm 47 đồn, gần 100 lô cốt với 2000 quân. Tại khu vực ngoại vi trên đường
239, Bến Củi, Suối Ông Hùng có 6 đồn, 11 lô cốt với 600 quân. Nhiệm vụ tấn công
chi khu quân sự được Quân đoàn 4 giao cho sư đoàn 9 với 3 trung đoàn bộ binh,
được tăng cường trung đoàn 16, tiểu đoàn 22 xe tăng (thiếu 1 đại đội), 1 tiểu
đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn cao xạ.
5 giờ sáng ngày 11
tháng 3, sư đoàn 9 nổ súng tấn công chi khu quân sự Dầu Tiếng. Pháo binh QLVNCH
của chi khu và tại các căn cứ lân cận như Rừng Nần, Bàu Đồn, Chà Là đã chi viện
cho lực lượng phòng thủ chi khu chặn được mũi tấn công chính của Sư đoàn 9 Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam trong ngày 11 tháng 3. Chiều 11 tháng 3, tướng Lê
Nguyên Khang điều chi đoàn 3 thiết đoàn 45 thuộc lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp từ
Bàu Đồn theo đường 239 lên giải tỏa cho Dầu Tiếng nhưng bị trung đoàn 16 Quân
Giải phóng phục kích chặn đánh tại Suối Ông Hùng, phải lui về Bàu Đồn. Các trận
địa pháo của QLVNCH tại Bàu Đồn và Rừng Nần cũng bị tiểu đoàn pháo binh của sư
đoàn 9 bắn kiềm chế.
Ngày 12 tháng 3, Quân
Giải phóng tiếp tục tấn công, kết hợp với đột kích bằng bộ binh, có pháo binh
và xe tăng yểm hộ với đặc công dùng thuốc nổ phá hầm ngầm cố thủ tại chỉ huy sở
chi khu. Thiếu tá chi khu trưởng Võ Văn Quý dẫn số quân còn lại rút về Bàu Đồn.
Lúc 9 giờ 40 phút cùng ngày, Quân Giải phóng làm chủ chi khu quân sự Trị Tâm (Dầu
Tiếng). Ngày 13 tháng 3, trung đoàn 2 (sư đoàn 9) được tăng cường tiểu đoàn 9
(Trung đoàn 3) cùng 1 đại đội xe tăng yểm trợ tấn công cụm phòng ngự Tam giác
trên đường 239 và các đồn lẻ Vườn Chuối, Ngã ba Sắc, Cầu Tàu, Bến Củi và làm chủ
trận địa sau ba giờ giao chiến. Mặc dù Bộ tham mưu Quân đoàn III QLVNCH đã có kế
hoạch sử dụng 2 chiến đoàn của sư đoàn 25 có lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp tăng
phái mở cuộc phản kích lấy lại Dầu Tiếng nhưng phải hủy bỏ vì lệnh của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu lui về giữ Truông Mít, Bầu Đồn, Tây Ninh.
Ngày 16 tháng 3, trước
nguy cơ bị tiêu diệt, QLVNCH bỏ An Lộc; rút 2 liên đoàn biệt động quân và lực
lượng của tiểu khu An Lộc về tăng cường cho lực lượng cố thủ tại Chơn Thành. Từ
ngày 24 đến ngày 30 tháng 3, các trung đoàn 1 và 2 (sư đoàn 9 liên minh Quân Giải
phóng) được phối thuộc 2 tiểu đoàn của tỉnh đội Bình Phước mở cuộc tấn công
Chơn Thành lần thứ nhất nhưng bị đánh bật lại. Ngày 31 tháng 3, sau khi tập
trung đầy đủ 3 trung đoàn bộ binh, được Bộ chỉ huy quân đoàn 4 tăng cường trung
đoàn 273 (sư đoàn 341) và tiểu đoàn pháo binh gồm 15 khẩu, trong đó có 4 khẩu
130 mm, sư đoàn 9 bao vây và tiếp tục tập kích cụm cứ điểm Chơn Thành. QLVNCH
điều 1 chi đoàn thuộc lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp lên giải vây cho Chơn Thành
nhưng đã bị những lực lượng của trung đoàn 1, trung đoàn 2 chặn đứng trên đường
số 13. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, lực lượng còn lại của liên đoàn 31 biệt động
quân tại Chơn Thành đã mở đường máu rút sang phía Đông, lui về hậu cứ của chiến
đoàn 315 tại Bàu Bàng. Sư đoàn 9 Quân Giải phóng đánh chiếm toàn bộ quận lỵ
Chơn Thành ngày 2 tháng 4. 2134 sĩ quan, binh sĩ QLVNCH bị tiêu diệt, 472 người
bị bắt, 16 máy bay các loại bị bắn rơi. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thu
giữ 39 xe quân sự (trong đó có 8 xe tăng), gần 1000 súng các loại (trong đó có
5 khẩu pháo cỡ 105 và 155 mm); chiếm lĩnh hoàn toàn tỉnh Bình Long và tạo ra
nhiều bàn đạp chiến thuật bao quanh cụm cứ điểm Xuân Lộc.
MẶT TRẬN XUÂN LỘC
Ngay sau các trận đánh
tại thượng du miền Đông Nam Bộ, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4, Quân đội Nhân dân Việt
Nam có bốn ngày để chuẩn bị cho trận đánh tại quyết chiến điểm Xuân Lộc. Thiếu
tướng Hoàng Cầm, tư lệnh quân đoàn sử dụng phương án 2 và trực tiếp chỉ huy
cánh quân phía Bắc và Tây Bắc. Đại tá Bùi Cát Vũ, phó tư lệnh Quân đoàn chỉ huy
cách quân Đông. Tại cụm cứ điểm Xuân Lộc, Chuẩn tướng Lê Minh Đảo và đại tá
Nguyễn Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh cũng bố trí xong trận địa phòng thủ. Lê
Minh Đảo tuyên bố với báo chí: "Tôi
thề giữ vững Xuân Lộc. Bất chấp cộng sản tập trung bao nhiêu sư đoàn, tôi cũng
đánh gục họ. Tôi sẽ đánh một trận oai hùng cho thế giới biết sức mạnh và tài ba
của Quân lực Việt Nam Cộng hòa".
5 giờ 40 phút sáng
ngày 9 tháng 4 năm 1975, chiến sự tại Xuân Lộc mở màn với trận pháo kích gần một
giờ của bốn cụm pháo binh chiến dịch thuộc Quân đoàn 4 - Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam. Sư đoàn 341 từ hướng Bắc nhanh chóng đánh chiếm khu thông tin,
khu cố vấn Hoa Kỳ và khu cảnh sát sau hơn một giờ công kích. Tuy nhiên, cách
quân này vẫn phải dừng lại phòng ngự cơ động do bị Chiến đoàn 52 QLVNC phản
kích vào bên sườn phía Nam. Ngược lại, cánh quân phía đông của Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam (sư đoàn 7) đã không chờ xe tăng đi cùng, phát triển tấn công
trước nên bị thương vong nhiều. Đến 8 giờ, tám xe tăng của Quân đoàn 4 mới đến
chi viện nhưng bộ binh không theo kịp để yểm hộ, bị QLVNCH bắn cháy ba chiếc gần
ấp Bảo Chánh A. Đến xế trưa, các trung đoàn 209 (sư đoàn 7) và 270 (sư đoàn
341) chốt giữ vòng ngoài đã đánh bại cuộc phản kích giải tỏa Sở chỉ huy sư đoàn
18 và dinh tỉnh trưởng Long Khánh do các chiến đoàn 43 và 48 thực hiện tại Núi
Thị, Tân Phong, Bảo Toàn, bắn cháy 7 xe tăng của QLVNCH tại ấp Bảo Toàn. Tại hướng
Nam, sư đoàn 6 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp tấn công dọc theo quốc
lộ 1 từ Hưng Nghĩa đến đèo Mẹ Bồng Con, chiếm ấp Trần Hưng Đạo, phá hủy 11 xe
tăng và xe bọc thép của Chiến đoàn 322 định ứng cứu cho Xuân Lộc từ phía Tây. Trong
ngày 9 tháng 4, các chiến đoàn của Sư đoàn 18 QLVNCH tổ chức hàng chục trận phản
kích vào các cánh quân của Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, chặn
được đà tiến quân của các lực lượng này, đặc biệt là trên hướng tấn công chủ yếu
từ phía Tây Bắc.
Từ này 10 đến ngày 11
tháng 4, các trung đoàn 141, 165 và 207 (sư đoàn 7) có xe tăng yểm hộ tiếp tục
tấn công hậu cứ Sư đoàn 18, chiến đoàn 52 và thiết đoàn 5 QLVNC nhưng cả ba mũi
tấn công đều bị chặn đứng. Trên hướng Tây Bắc, các trung đoàn 226 và 270 (sư
đoàn 341) tiếp tục phái đổi phó với các trận phản kích của các Chiến đoàn 322
và 43. Trên hướng phối hợp, trung đoàn 33 (sư đoàn 6) chiếm được một phần chi
khu quân sự Dầu Giây. Trong hai ngày này, không quân VNCH từ Biên Hòa đã tổ chức
hơn 200 phi vụ ném bom, yểm hộ cho sư đoàn 18 và các đơn vị QLVNCH đang phòng
thủ tạị Xuân Lộc. Do các lực lượng phòng thủ Xuân lộc đã bị chia cắt thành ba cụm:
Núi Thị, Dầu Giây và thị xã, đêm 11 tháng 4, tướng Lê Minh Đảo bí mật chuyển Sở
chỉ huy sư đoàn 18 từ trong thị xã ra Chi khu Tân Phong. Đại tá Phạm Văn Phúc,
tỉnh trưởng Long Khánh cũng di tản lên căn cứ Núi Thị.
Ngày 12 tháng 4 năm
1975. Bộ Tổng tham mưu QLVNCH quyết định tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc nhiều
đơn vị rút từ lực lượng tổng trù bị. Lữ đoàn dù 1 đổ bộ xuống đồn điền cao su Bảo
Định. Hai lữ đoàn thủy quân lục chiến được điều đến phòng ngự phía Đông căn cứ
Biên Hòa. Liên đoàn 33 biệt động quân, trung đoàn 8 bộ binh (sư đoàn 5), 8 tiểu
đoàn pháo binh, 3 chi đoàn thiết giáp 3/15, 3/18, 3/22 được đưa đến khu vực Tân
Phong, Dầu Giây. Sư đoàn 3 và sư đoàn 5 không quân tại Biên Hòa và Tân Sơn Nhất
tổ chức mỗi ngày từ 80 đến 120 phi vụ yểm hộ cho cụm phòng thủ Xuân Lộc. 14 giờ
ngày 12 tháng 4, Không lực VNCH đã sử dụng máy bay C-130 ném hai quả bom CBU-55
(bom Daisy Cutter), một trong những loại vũ khí phi hạt nhân có sức hủy diệt
hàng loạt xuống xã Xuân Vinh, sát thị xã Xuân Lộc, gây thương vong hơn 2000
quân nhân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và dân thường.
Ngày 13 tháng 4, tướng
Trần Văn Trà, Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đến Sở chỉ huy Quân
đoàn 4. Tại đây, ông quyết định tạm dừng tấn công và thay đổi cách đánh, sử dụng
sư đoàn 6 và một phần của sư đoàn 341 chuyển hướng tấn công chủ yếu sang phía
Tây Nam cụm phòng thủ Xuân Lộc tại điểm yếu nhất là khu Dầu Giây, cắt đường số
2 đi Bà Rịa - Vũng Tàu, cắt đường 1 đoạn Xuân Lộc - Biên Hòa, tổ chức nhiều chốt
chặn trên địa đoạn Trảng Bom - Biên Hòa. Bằng cách đó, có thể dùng "thế"
để đánh chiếm Xuân Lộc. Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 cũng điều trung đoàn 95B tăng cường
cho Quân đoàn 4 tại mặt trận Xuân Lộc. QLVNCH cho rằng họ đã đẩy lùi cuộc tấn
công của đối phương, chấm dứt thời kỳ rút lui. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
tuyên bố "khả năng chiến đấu của quân lực Việt Nam cộng hòa đã được phục hồi"
và "đủ mạnh để giữ vững chế độ". Tướng Lê Minh Đảo cũng tuyên bố "Việt cộng muốn qua Long Khánh phải bước
qua xác của Đảo này".
Tuy nhiên, đến ngày 15
tháng 4 thì tình hình mặt trận đã diễn biến khác hẳn. Sáng 15 tháng 4, pháo
binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không bắn phá thị xã Xuân Lộc mà nhằm
vào sân bay Biên Hòa. Trong gần một ngày, sư đoàn 3 KQVNCH tại đây đã bị trúng
bom không tổ chức được một phi vụ xuất kích nào. Để có đủ hỏa lực yểm hộ cho
Xuân Lộc từ trên không, Sư đoàn 4 không quân tại căn cứ Trà Nóc được huy động.
Ngay trong ngày 15 tháng 4, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B Quân Giải phóng miền
Nam đã đánh tan Chiến đoàn 52 và Chi đoàn thiết giáp số 13 của QLVNCH tại Túc
Trưng, Kiệm Tân, ngã ba Dầu Giây và căn cứ Nguyễn Thái Học, phá vỡ tuyến phòng
thủ phía Tây Xuân Lộc. Toàn bộ chiến đoàn chỉ còn hơn 200 người sống sót. Trong
hai ngày 16 và 17 tháng 4, Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn III - QLVNCH sử dụng
Lữ đoàn thiết giáp số 3 và Chiến đoàn 8 (sư đoàn 5) với sự yểm hộ của gần 200
phi vụ ném bom và hơn 100 khẩu pháo tại các căn cứ Nước Trong, Bà Thức, Long
Bình, Đại An phản kích theo đường số 1 nhằm giải toả ngã ba Dầu Giây nhưng đều
bị các lực lượng của Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đẩy lùi về Bàu Cá. Trên các khu vực xung quanh thị xã Xuân Lộc, các chiến
đoàn 43, 48 và tiểu đoàn dù 2 (lữ đoàn dù 1) QLVNCH liên tục bị tập kích và
tiêu hao.
Từ ngày 16 đến ngày 18
tháng 4, các tuyến phòng thủ của QLVNCH tại Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân liên
tiếp bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phá vỡ. Các đơn vị phái đi trước của
Cánh quân Duyên Hải của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (gồm Quân đoàn 2 và
chủ lực khu 5) đã có mặt tại Rừng Lá, cách Xuân Lộc 10 km về phía Đông, các trục
lộ giao thông quan trọng nối Xuân Lộc với các địa bàn xung quanh đều bị cắt đứt.
Trước nguy cơ bị bao vây và tiêu diệt hoàn toàn, ngày 19 tháng 4, tướng Lê Minh
Đảo điện cho Bộ Tổng tham mưu QLVNCH đề nghị rút khỏi Xuân Lộc và lập tức được
chấp thuận với yêu cầu giữ bí mật tuyệt đối kế hoạch rút lui. Ngày 20 tháng 4,
dưới trời mưa tầm tã, hơn 200 xe quân sự các loại vận chuyển những đơn vị
QLVNCH còn lại tại Xuân Lộc di chuyển theo liên tỉnh lộ 2 hướng đi Bà Rịa rồi
theo đường mòn vòng về Biên Hòa. Những đơn vị này đã bị một tiểu đoàn của tỉnh
đội Long Khánh (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) truy kích và tiêu diệt toán
quân rút sau cùng. Viên đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh và trung
tá Lê Quang Định phó tỉnh trưởng tử trận. "Cánh cửa thép" Xuân Lộc bị
đập vỡ. Trận đánh có tổ chức nhất của QLVNCH trước cửa ngõ Sài Gòn tháng 4 năm
1975 kết thúc với sự rút lui của các đơn vị tổng trù bị cuối cùng khiến Sài Gòn
không còn một lực lượng nào đáng kể để mặc cả với đối phương. Theo Frank Snepp,
đại tướng Cao Văn Viên phải bất đắc dĩ mà công nhận rằng: quân đội không còn
chiến đấu được nữa và không còn hy vọng gì thắng trận.
MẶT TRẬN PHAN RANG
Do phải hành quân trên
chặng đường dài hơn 400 km từ Quảng Nam vào nên đến sáng 13 tháng 4, các chi đội
phái đi trước của cánh quân Duyên hải (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) gồm
sư đoàn 3 Sao Vàng và trung đoàn bộ binh 25 (được điều từ Quân đoàn 3 sang phối
thuộc) mới có mặt tại phía Nam Cam Ranh. Bộ tư lệnh cánh quân Duyên Hải giao
cho Sư đoàn này nhiệm vụ đánh chiến Phan Rang trong hành tiến. Việc chuẩn bị lực
lượng chỉ trong một ngày.
Sáng ngày 14 tháng 4,
sư đoàn 3 Sao Vàng bắt đầu đột phá tuyến phòng thủ tại hẻm Du Long do Trung
đoàn 5 (sư đoàn 2) và Liên đoàn 31 biệt động quân QLVNCH trấn giữ. Để hạn chế
thương vong, Bộ tư lệnh sư đoàn 3 chỉ dùng trung đoàn 2 đánh vỗ mặt, điều trung
đoàn 52 luôn sâu và phía Nam, bất ngờ đánh chiếm hai điểm chốt tại ấp Bà Râu và
cảng Ninh Chữ; đến buổi chiều cùng ngày thì khép được vòng vây cánh quân của
QLVNCH ở phía Bắc Phan Rang tại Bà Râu, Du Long, Kiền Kiền, Ba Tháp, Suối Đá.
Trên hướng Tây Bắc, trung đoàn 25 đánh bật các đợt phản kích của trung đoàn 4,
sư đoàn 2 tại đèo Ngoạn Mục, đẩy đơn vị này phải lùi khỏi tuyến phòng ngự ngoại
vi Phan Rang rút về thị xã. Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, điều 8 máy bay A-37 ném
bom phá sập cầu Kiền Kiền và dùng trực thăng đổ thêm quân xuống tuyến phòng thủ
Kiền Kiền - Ba Tháp, tạm thời chặn được mũi tấn công của Sư đoàn 3 Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam ở hướng này.
Ngày 15 tháng 4, Sư
đoàn 3 Sao Vàng một mặt vẫn sử dụng trung đoàn 2 và trung đoàn 52 phá vỡ tuyến
phòng ngự phía Bắc Phan Rang tại Kiền Kiền và Ba Tháp; mặt khác tiếp tục điều động
từ lực lượng dự bị của mình các trung đoàn 12 và 141 vượt đường số 1 thực hiện
mũi vu hồi thọc sâu thứ hai, tấn công áp sát sân bay Thành Sơn, vây chặt thi xã
Phan Rang. Tướng Phạm Ngọc Sang tiếp tục lệnh cho sư đoàn 6 không quân ném bom
đánh sập tất cả các cầu ở phía Bắc Du Long nhưng vẫn không ngăn cản được các
đơn vị xe tăng phái đi trước của Lữ đoàn 203 - Quân đoàn 2 Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam tiếp cận Phan Rang. Trưa 15 tháng 4, tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh
Quân đoàn III và tổng trưởng quốc phòng Trần Văn Đôn ra thị sát Phan Rang trong
một chuyến đi chớp nhoáng. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi xin tăng viện một tiểu đoàn
dù nhưng được trả lời rằng quân dù hiện đang tăng phái cho Xuân Lộc, không còn
đơn vị nào để điều cho Phan Rang. Tối hôm đó, các tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm
Ngọc Sang, Trần Văn Nhựt (tư lệnh sư đoàn 2) và các đại tá Lê Quang Lưỡng (chỉ
huy quân dù), Nguyễn Văn Biết (chỉ huy biện động quân) bàn định một kế hoạch phản
công quy mô vào sáng hôm sau để khôi phục tình hình ở Du Long.
Ngay khi tiếp cận chiến
trường, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 điều động thêm trung đoàn bộ binh 101 (sư đoàn
325) và một tiểu đoàn xe tăng thuộc lữ đoàn 203 tham chiến. 5 giờ sáng ngày 16
tháng 4, tất cả các cánh quân của sư đoàn 3 và trung đoàn 25 tấn công hợp điểm
vào trung tâm thị xã. Chưa kịp ra lệnh phản công, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đã nhận
được tin điện khẩn cấp từ Liên đoàn 31 biệt động quân đóng tại Hội Diên, Xuân
An báo về: "Xe tăng cộng sản vượt qua sông suối đang tràn qua Du Long vào
Phan Rang". Tướng Sang ra lệnh cho tất cả các máy bay còn bay được lập tức
xuất kích ngăn chặn xe tăng đối phương. Tuy nhiên, ngay sau đó, một trận pháo
kích mạnh của pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phá hỏng đường
băng sân bay Thành Sơn. Các máy bay đã cất cánh phải quay về Biên Hòa sau khi
thực hiện phi vụ. Lúc 9 giờ 30 phút cùng ngày, trung đoàn 101 đánh chiếm dinh tỉnh
trưởng, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Tư, tỉnh trưởng Ninh Thuận. Lúc 10 giờ cùng
ngày, trung đoàn 25 làm chủ sân bay Thành Sơn, bắt sống trung tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi - Phó tư lệnh Quân đoàn III và chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, chỉ huy sư đoàn
6 không quân QLVNCH. "Lá chắn Phan Rang" của QLVNCH đã chịu chung một
số phận với "Lá chắn Xuân Lộc".
KẾT QUẢ
CHIẾN DỊCH
Kết quả chính trị - quân sự
Với bốn tỉnh Ninh Thuận,
Bình Thuận, Hàm Tân và Long Khánh vừa chiếm được, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã kiểm soát 20 tỉnh, chiếm hai phần ba lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Không
chỉ mất hai vị trí phòng thủ then chốt là Xuân Lộc và Phan Rang, QLVNCH còn mất
nốt những lực lượng trù bị chiến lược cuối cùng. Điều đó nói lên thế và lực của
quân đội này đã hoàn toàn suy sụp và khả năng Sài Gòn bị Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam đánh chiếm chỉ còn là vấn đề của thời gian có thể tính từng ngày.
Sáng 18 tháng 4, tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III đã báo cho tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu biết tin thua trận, quân đội đang tán loạn và chỉ còn có
thể chống đỡ được vài ba ngày. Còn Văn phòng CIA tại Sài Gòn đã đánh một bức điện
về Trung tâm CIA với nội dung: "Mọi dấu hiệu cho thấy Cộng sản đã thay đổi
kế hoạch thời gian biểu của họ. Có thể họ sẽ tiến công vào khu vực Sài Gòn khoảng
giữa tháng Tư. Họ cũng chẳng nhắc đến thương lượng và đả động đến một chính phủ
ba thành phần nữa".
Hai cuộc thất trận
liên tiếp ở Phan Rang và Xuân Lộc đã gây ra một cơn địa chấn chính trị tại Sài
Gòn. Sáng 18 tháng 4, tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tiếp một số nhân vật
ôn hòa. Họ đều nói cho Nguyễn Văn Thiệu biết rằng thời của ông ta đã hết và họ
mong muốn một sự rút lui êm ả. Trong khi đó, tại thượng viện và hạ viện, những
người đối lập không giấu giếm ý muốn lấy thủ cấp chính trị của Nguyễn Văn Thiệu.
Kể cả phe cực hữu cũng muốn Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Theo họ, ông ta phải
chịu trách nhiệm vì những thất bại quân sự quá chóng vánh vừa qua.
Cũng trong những ngày
cuối cùng này, tại cả thượng nghị viện và hạ nghị viện Sài Gòn đều nổ ra những
cuộc tranh cãi dữ dội về đối sách của VNCH. Phe hữu kêu gọi phải chiến đấu đến
cùng và tin rằng người Mỹ sẽ viện trợ tất cả những gì cần để chống đỡ, để ổn định
lại tình hình và thương lượng với cộng sản trên thế mạnh. Phe ôn hòa thì phê
phán những người yêu cầu chiến đấu đến cùng là thiếu đầu óc thực tế. Họ cho rằng
nếu đã phải thương lượng thì nên thương lượng ngay để tránh một thất bại khủng
khiếp, thất bại hoàn toàn cả về quân sự và chính trị. Cho dù cuộc tranh cãi vô
vọng ấy vẫn tiếp diễn thì cũng đã có đến sáu nhóm muốn loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu
khỏi chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa vì họ đều biết Nguyễn Văn Thiệu là
người mà "phía bên kia" không bao giờ chấp nhận nói chuyện:
Nhóm quân nhân cao cấp
do Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu.
Nhóm chính trị cấp tiến
do tướng Dương Văn Minh làm thủ lĩnh.
Nhóm Phật giáo do Thượng
tọa Thích Trí Quang lãnh đạo.
Nhóm Thiên chúa giáo
do Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình lãnh đạo.
Nhóm Phong trào cứu nước,
cứu vãn hòa bình, đấu tranh chống tham nhũng do linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo.
Nhóm các lực lượng hòa
hợp dân tộc do Thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu đứng đầu.
Tất cả các áp lực trên
cùng với sự thua trận về quân sự đã dẫn đến kết quả là 19 giờ tối 21 tháng 4
năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức sau 10 năm ngồi ghế tổng thống Việt
Nam Cộng hòa. Ngay sau đó, Thượng nghị viện đã chỉ định ông Trần Văn Hương giữ
chúc vụ này với một nhiệm vụ duy nhất: bằng mọi cách, phải mở được một cuộc đàm
phán với đối phương. Nhiều người trách cứ Thiệu là đã ra đi quá muộn, để tình
hình quá nát đến mức không còn có thể cứu với được gì. Tuy nhiên, đó không chỉ
là lỗi của riêng ông ta. Người muốn giữ Nguyễn Văn Thiệu thêm một thời gian nữa
không phải ai khác mà chính là đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin.
Phản ứng của quốc tế
Thắng lợi cùng lúc tại
hai mặt trận Xuân Lộc và Phan Rang đã làm cho vai trò của hai đoàn đại biểu Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
trong Ban Liên hợp quân sự bốn bên đóng tại Tân Sơn Nhất trở nên quan trọng. Tại
buổi họp thường kỳ vào sáng thứ Bảy (19 tháng 4) ông Võ Đông Giang, đại diện
cho Chính phủ Cách mạng lâm thời không những yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu phải ra
đi mà còn yêu cầu cả đại sứ Martin và các cố vấn quân sự Hoa Kỳ đang mặc thường
phục cũng phải ra đi nhưng thường dân Hoa Kỳ thì không bị coi là đồng minh với
VNCH. Người đứng đầu CIA tại Sài Gòn, ông Polga thì lại cho đó là tín hiệu cho
việc duy trì sự có mặt tối thiểu của Hoa Kỳ cho dù có điều gì xảy ra đi nữa. Và
thế là phía Hoa Kỳ bắt đầu một cuộc vận động để Thiệu ra đi càng nhanh càng tốt
nhằm lấy chỗ cho một người có thể đứng ra nói chuyện được với đối phương. Trái
với những gì Polga đã làm trước đây là tô hồng tình hình để mong có được sự hậu
thuẫn từ Washington và động viên Thiệu phần nào; lần này Polga ra lệnh cho cấp
dưới làm báo cáo thật đen tối để thuyết phục Thiệu rút lui.
Trong ngày 20 tháng 4,
đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin có hai cuộc gặp quan trọng. Buổi sáng, ông gặp Nguyễn
Văn Thiệu và nói rõ rằng người Việt Nam cho rằng Nguyễn Văn Thiệu phải chịu
trách nhiệm về tình hình này; rằng các tướng lĩnh đều cho rằng phòng thủ là tuyệt
vọng trừ phi có được một sự trì hoãn được bắt đầu bằng một cuộc thương lượng với
"phía bên kia". Mà để có được điều đó thì ông Thiệu phải ra đi. Đến
lúc này, Nguyễn Văn Thiệu vẫn khăng khăng đòi phía Hoa Kỳ đưa không quân can
thiệp nhưng ý kiến này đã bị đại sứ Martin bác bỏ thẳng thừng. Martin hứa với
Nguyễn Văn Thiệu sẽ bảo đảm cho sự ra đi ấy an toàn, trọn vẹn nếu Thiệu chấp nhận.
Buổi chiều, đại sứ Martin gặp đại sứ Cộng hòa Pháp Merillon và đại sứ một số nước
đồng minh của Hoa Kỳ để vận động họ ủng hộ giải pháp ngừng chiến để thương lượng.
Một cuộc vận động ngoại giao lập tức diễn ra ở một số thủ đô của các nước lớn
trên thế giới và đại sứ Martin hy vọng bằng cách này, có thể giúp VNCH có thời
gian ổn định tình hình, giữ được phần đất còn lại trong một cuộc mặc cả chính
trị.
Tuy nhiên, thời gian
không còn nhiều. Và điều oái oăm là chính giới Sài Gòn khi đó lại chọn Trần Văn
Hương, người cùng phe với Nguyễn Văn Thiệu vào ghế tổng thống. Mặc dù ngay khi
nhậm chức, ông này kêu gọi: "chấp thuận ngừng bắn, lập một hội đồng quốc
gia ba thành phần trong đó có sự tham gia của cộng sản"; mặc dù Bộ trưởng
thông tin VNCH Phan Hòa Hiệp đã đến Tân Sơn Nhất gặp hai phái đoàn của
"phía bên kia" để thông báo lệnh của chính phủ VNCH thả một số tù
chính trị, đồng thời cử một người trung gian ra Hà Nội để "trao đổi quan
điểm" nhưng VNDCCH đã bác bỏ tất cả những đề nghị đó. Ngày 23 tháng 4, Đài
phát thanh Tiếng nói Việt Nam truyền đi một bài xã luận, trong đó nêu rõ rằng
đây là sự duy trì tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu mà không có Thiệu; đồng thời nói rõ
thời hạn rút các cố vấn Mỹ đã sắp cạn, có thể chỉ còn vài ba ngày, thậm chí là
24 giờ tới. Tiếng nổ của những trái hỏa tiễn và đạn pháo 130 mm của Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam nã vào sân bay Tân Sơn Nhất sáng sớm ngày 24 tháng 4
năm 1975 đã chứng tỏ Hà Nội không nói suông. Tuy nhiên, cả đại sứ Hoa Kỳ Martin
và đại sứ Pháp Merillon vẫn bám vào một niềm tin vô vọng là cho đến phút cuối
cùng, Bắc Kinh sẽ lên tiếng để chặn tay Hà Nội trước cửa ngõ Sài Gòn, để cho
VNCH tiếp tục tồn tại.
WIKIPEDIA
Nhận xét
Đăng nhận xét