Bài 3 -CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN [Phần 2]
Bài 3
CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN
[Phần 2]
TRẬN BAN
ME THUỌT
Cuộc chiến trong thị xã
Buôn Ma Thuột nằm ở giữa
ngã ba của hai con đường chiến lược 14 và 21, là chốt giữ giao thông của Nam
Tây Nguyên. Từ Buôn Ma Thuột dễ dàng đi lên các tỉnh phía Bắc và đi xuống Đông
Nam Bộ-Sài Gòn bằng cả đường không và đường bộ. Chính về tầm quan trọng đó nên
Buôn Ma Thuột có các căn cứ, sân bay, kho đạn hậu phương của các đơn vị chủ lực
của Quân khu 2; Quân đoàn 2 VNCH, được bảo vệ bởi các đơn vị khá tinh nhuệ gồm
1 Trung đoàn bộ binh, Trung đoàn 232 pháo binh và 2 Tiểu đoàn pháo binh, Trung
đoàn 8 thiết giáp, cùng với lực lượng bảo an, cảnh sát, mật vụ… với tổng quân số
hơn 8.000 lính. Tuy nhiên, do QLVNCH chỉ lo bố trí lực lượng để đối phó ở phía
Bắc, còn lực lượng bảo vệ Buôn Ma Thuột tuy đông nhưng khả năng chiến đấu khá
thấp do lơi lỏng phòng bị.
2 giờ sáng 10 tháng 3
năm 1975, cuộc tiến công của Quân Giải phóng vào Buôn Ma Thuột bắt đầu với các
trận đột kích sâu của trung đoàn 198 đặc công vào các mục tiêu: Sân bay Hòa
Bình, khu kho Mai Hắc Đế, khu hậu cứ của trung đoàn 53 (QLVNCH) với sự yểm hộ của
hỏa tiễn tầm ngắn ĐKB và H-12. Theo lời kể của thiếu tá Phạm Huấn, trợ lý báo
chí của tướng Phạm Văn Phú, trận pháo kích gây kinh hoàng cho cả hai vị chỉ huy
QLVNCH tại Buôn Ma Thuột là đại tá Nguyễn Trọng Luật và đại tá Vũ Thế Quang. Tại
thời điểm đó, đại tá Quang vẫn nhận định rằng: "Cộng quân chỉ dùng đặc
công và pháo binh quấy rối rồi đến sáng, họ sẽ rút ra"
Đến 3 giờ 30 phút, tiểu
đoàn 4 (trung đoàn 198) đã khai thông đường Phan Chu Trinh và chiếm được phần
phía Nam sân bay Hòa Bình chốt giữ tại đó, chờ bộ binh và xe tăng chi viện. Tiểu
đoàn 5 (trung đoàn 198) đánh vào khu kho Mai Hắc Đế và đoạn đường 429, tiếp tục
pháo kích bằng hỏa lực ĐKB, H-12 (trong đó ĐKB là hỏa lực chủ công kiểm soát
toàn bộ các mục tiêu trong thị xã. theo yêu cầu của bộ binh)vào Sở chỉ huy sư
đoàn 23, Sở chỉ huy tiểu khu, trung tâm thông tin, doanh trại thiết giáp và khống
chế trận địa pháo. Lúc 5 giờ sáng, cửa ngõ tiến quân bằng cơ giới của Quân Giải
phóng từ hướng đông bắc, tây bắc, tây và tây nam vào Buôn Ma Thuột đã được khai
thông. Sau khi pháo binh sư đoàn và pháo binh chiến dịch tiếp tục pháo kích vào
thị xã, các đại đội xe tăng có bộ binh đi kèm bật đèn pha mở hết công suất, húc
đổ các cây rừng đã cưa sẵn, vượt qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài đánh thẳng
vào trung tâm thị xã.
Hướng Tây Nam, trung
đoàn 174 có 1 đại đội xe tăng yểm hộ vượt qua các chốt Chi Lăng, Chư Di và khu
kho Mai Hắc Đế. Hướng Tây Bắc, trung đoàn 148 có 1 đại đội xe tăng mở đường
đánh vào Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc và dùng 1 tiểu đoàn tấn công ấp Châu Sơn.
Hướng Tây, có tiểu đoàn 4 (trung đoàn 24 sư đoàn 10) và 2 đại đội xe tăng đánh
vào Sở chỉ huy sư đoàn 23 và mặc dù xe tăng bị sa lầy và bị máy bay QLVNCH bắn
phá song họ vẫn tấn công vào khu quân y, khu truyền tin. Hướng Đông Bắc có
trung đoàn 95B đánh vào khu vực ngã sáu, hướng Đông Nam, trung đoàn 149 (không
có xe tăng đi kèm) dùng một tiểu đoàn tấn công cứ điểm Chư Blom và điểm cao
582, 1 tiểu đoàn còn lại đánh thốc qua cứ điểm Ba Lê và điểm cao 491 tiến thẳng
vào trung tâm thị xã. Phía Đông thị xã, trung đoàn 3 (sư đoàn 10) có 1 đại đội
xe tăng yểm hộ phối hợp với 1 tiểu đoàn của trung đoàn 149 (sư 316) tấn công
đánh chiếm sân bay Hòa Bình từ hai hướng Đông Bắc và Tây Nam khép lại. Trung
đoàn 2 (sư đoàn 10) đánh chiếm cứ điểm Phước An.
Từ hầm chỉ huy của sư
đoàn 23, đại tá Nguyễn Trọng Luật điều 2 chi đội thiết giáp M-113 ra giữ Ngã
Sáu nhưng đã bị các xe tăng của đại đội 5, tiểu đoàn 3, trung đoàn xe tăng 273
đẩy lùi. Tiểu đoàn biệt động quân đóng giữ Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc chống trả
quyết liệt. Phải đến 17 giờ 30, sau đợt tấn công thứ sáu, trung đoàn 95B mới
chiếm được sở chỉ huy tiểu khu.[50] Ở hướng Đông Bắc thị xã, tiểu đoàn 9 liên
đoàn 21 biệt động quân chỉ giữ được đến trưa thì bị đẩy lùi ra ngoại vi phía
Đông thị xã, chịu mất các khu pháo binh, thiết giáp và hậu cứ của trung đoàn
45. Ở hướng Tây, Sư đoàn 6 không quân QLVNCH điều động 8 chiếc A-37 ném bom vào
đội hình của trung đoàn 24 (sư đoàn 10 QGP) gây một số thương vong nhưng không
làm chậm lại tốc độ tiến quân của đơn vị này. Ở hướng Tây Nam, đại tá Vũ Thế
Quang liên tục tung các lực lượng dự bị có trong tay phản kích nhằm chiếm lại
khu kho Mai Hắc Đế, đồng thời gọi không quân đánh phá ngăn chặn. Trung đoàn 174
(F316) phải để lại một tiểu đoàn bao vây khu vực này, điều 2 tiểu đoàn còn lại
đánh vòng qua khu kho để tiếp cận Sở chỉ huy sư đoàn 23. Ở hướng Đông Nam, các
tiểu đoàn 7 và 8 (trung đoàn 149) mặc dù bị nhiều tốp máy bay A-37 của không
quân VNCH oanh tạc vào đội hình, gây nhiều thương vong nhưng họ vẫn đẩy lùi các
lực lượng của trung đoàn 53, đánh chiếm khu cư xá sĩ quan, khu tiếp vận, Sở Thú
y, Sở Ngân khố, nhà lao, đến 15 giờ thì gặp các đơn vị của trung đoàn 95B.
Đến 14 giờ 30, đại tá
Trịnh Tiếu, trưởng phòng quân báo Quân đoàn II mới trình tướng Phú bản báo cáo
trong đó kết luận: đã phát hiện sư đoàn 316 (QGP) từ Lào về đang di chuyển xuống
phía Nam. Tướng Phú lập tức ra lệnh phá các cầu trên đường 14 để ngăn chặn đơn
vị này nhưng đã quá muộn. Đến lúc đó thì toàn bộ sư đoàn 316 đã giao chiến với
quân VNCH trong nội đô thị xã được hơn 10 tiếng đồng hồ.[52] Lúc 17 giờ, tiểu
đoàn 9 (trung đoàn 149) phối hợp với các đơn vị của trung đoàn 198 đặc công vây
đánh nhưng không chiếm được sở chỉ huy sân bay Hòa Bình do một tiểu đoàn biệt động
quân QLVNCH phòng giữ. Trong thị xã, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 149) đánh chiếm
khu tham mưu - truyền tin và nhầm lẫn rằng đó là Sở chỉ huy sư đoàn 23.
Đêm 10 tháng 3, chiến
sự tạm lắng. Các đơn vị QLVNCH còn lại trong thị xã co cụm trong các cứ điểm
còn giữ được như Sở chỉ huy sư đoàn 23, khu nhà ga sân bay Hòa Bình, đài phát
thanh. Đại tá Vũ Thế Quang điện cho chuẩn tướng Lê Trung Tường xin tiếp ứng
nhưng chỉ nhận được câu trả lời: "Bộ chỉ huy đang bận đối phó trên hướng
Pleiku-Kon Tum. Đại tá ráng giữ vững. Cộng quân có đánh lớn thì cũng chỉ được
vài ngày rồi rút như hồi Mậu Thân". Sáng 11 tháng 3, các đơn vị Quân Giải
phóng tiếp tục tấn công trong làn mưa bom từ các máy bay A-37 của không quân
VNCH trút xuống thị xã. Lúc 7 giờ 55, một tốp A-37 trong khi ném bom ngăn chặn
10 xe tăng của Quân Giải phóng đã đánh hai quả bom trúng hầm chỉ huy và truyền
tin Sở chỉ huy sư đoàn 23. Bộ tư lệnh quân đoàn II QLVNCH mất liên lạc hoàn
toàn với Bộ tư lệnh sư đoàn 23 kể từ giờ phút đó.
Mất sở chỉ huy, đồng
thời bị vây đánh từ nhiều phía, các đơn vị còn sống sót của QLVNCH cố gắng chống
cự chờ viện binh nhưng đến 11 giờ ngày 11 tháng 3, các đơn vị của sư đoàn 316
đã hoàn toàn làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Chỉ còn liên đoàn 21 biệt động quân
(thiếu) và một số đơn vị còn lại của trung đoàn 53 đang cố giữ chốt phòng ngự
cuối cùng tại sân bay Hòa Bình (phi trường Phụng Dực) với hy vọng không quân sẽ
đến đổ quân chi viện.
Phản kích và chống phản kích
Đến ngày 12 tháng 3,
khu vực hậu cứ trung đoàn 53 (sư đoàn 23) và sân bay Hòa Bình (Phụng Dực) trở
thành nơi đồn trú của hầu hết các lực lượng QLVNCH còn lại sau hai ngày tác chiến
đổ về đây. Tuy nhiên, trong số đó không có đại tá Vũ Thế Quang và đại tá Nguyễn
Trọng Luật. Hai ông này đã bị bắt làm tù binh lúc 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3
năm 1975. Trung tá Võ Ấn, trung đoàn tưởng trung đoàn 53 chỉ huy cánh quân này
[57]. Từ Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tướng Phạm Văn Phú phải
giữ bằng được các vị trí còn lại ở phía Đông thị xã làm bàn đạp và phải có ngay
kế hoạch phản kích giải tỏa cho Buôn Ma Thuột. Rạng sáng ngày 12 tháng 3, kế hoạch
tái chiếm Buôn Ma Thuột được Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận gồm các hoạt động quân
sự lớn sau đây:
Sử dụng liên đoàn 21
biệt động quân (thiếu) phối hợp với số quân còn lại của trung đoàn 53 tại trại
B50 (hậu cứ sư đoàn 23) hình thành một cánh quân tại chỗ để phản kích.
Điều động toàn bộ hai
trung đoàn còn lại của sư đoàn 23 (44 và 45) dùng trực thăng vận đổ bộ xuống
khu vực Nông Trại - Phước An (phía Đông Buôn Ma Thuột), hình thành cánh quân phản
kích chủ yếu đánh thẳng vào thị xã.
Huy động tối đa các sư
đoàn không quân 6 (thuộc Quân đoàn II), 1 (tại Đà Nẵng), 4 (tại Cần Thơ) yểm trợ
tối đa cho cuộc hành quân.
Điều động liên đoàn 7
biệt động từ Sài Gòn lên Pleiku thay thế hai trung đoàn 44 và 45 được rút đi để
ném xuống Buôn Ma Thuột.
Chiều ngày 12 tháng 3,
sau trận oanh kích dọn bãi của 81 máy bay cường kích A-1, A-37, F-5; hai tiểu
đoàn của trung đoàn 45 và một đại đội thám báo của sư đoàn 23 do trung tá Phùng
Văn Quang (trung đoàn trưởng trung đoàn 45 chỉ huy) là những đơn vị đầu tiên đổ
quân xuống Phước An. Hơn 100 máy bay trực thăng đủ loại, kể cả loại hạng nặng
CH-47 Chinook được huy động cho cuộc chuyển quân. Lúc 13 giờ 10 phút chiều 12
tháng 3, đích thân thiếu tướng Phạm Văn Phú bay trên phi cơ hạng nhẹ U-17 lên
vùng trời Buôn Ma Thuột chỉ huy cuộc phản kích. Từ trên máy bay, tướng Phú điện
cho trung tá Võ Ấn đang chỉ huy các lực lượng giữ sân bay Hòa Bình biết cuộc đổ
quân xuống Phước An - Nông Trại đã bắt đầu và động viên các đơn vị này cố gắng
giữ vững. Sang ngày 13 tháng 3, 145 chiếc trực thăng đã đổ trung đoàn 44, pháo
đội 232 và tiểu đoàn còn lại của trung đoàn 45 xuống khu vực điểm cao 581, Nông
Trại, Phước An, Chư Cúc dọc đường 21. Chiều tối 12 tháng 3, sau khi đợt 1 của
cuộc đổ quân hoàn tất, tướng Phú quay lại Pleiku gặp tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
trên máy liên lạc cao tần để báo cáo cho tổng thống Thiệu tin tức mới nhất về sự
xuất hiện của sư đoàn 316 QGP trên chiến trường Buôn Ma Thuột.
Trong khi đang thực hiện
việc chuyển quân của sư đoàn 23 từ Pleiku về Buôn Ma Thuột, sân bay Cù Hanh tiếp
tục bị các đơn vị của sư đoàn 968 Quân Giải phóng pháo kích. Bộ Tư lệnh Quân Giải
phóng tại mặt trận Tây Nguyên đã dự liệu được phản ứng của QLVNCH và hành động
theo phương châm: tranh thủ được một tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp
đôi; tranh thủ được 24 tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp mười. Ngày 11
tháng 3 trong khi các trận đánh trong thị xã còn tiếp diễn, tiểu đoàn 6, trung
đoàn 24 (sư đoàn 10) đã tấn công cứ điểm Chư Nga và căn cứ 45 phía Đông thị xã.
Việc để mất căn cứ 45 và cứ điểm Chư Nga đã buộc các trung đoàn 44 và 45 QLVNCH
phải thay đổi địa điểm đổ quân đến Nông Trại - Phước An. Từ chiều 13 tháng 3,
các trung đoàn 24 và 28 (sư đoàn 10) được tăng cường hai đại đội xe tăng và một
tiểu đoàn pháo binh đã hành quân suốt đêm và áp sát quận lỵ Phước An vào rạng
sáng. 7 giờ 7 phút sáng 14 tháng 3, trong khi các đơn vị của hai trung đoàn 44
và 45 QLVNCH còn chưa triển khai đội hình, trung đoàn 24 (sư đoàn 10 QGP) có
hai tiểu đoàn của trung đoàn xe tăng 273 yểm hộ đã từ hai phía nổ súng tấn công
trung đoàn 45 tại điểm cao 581.
Đến 12 giờ trưa ngày
14 tháng 3, các tiểu đoàn 1 và 2 của trung đoàn 45 cùng tiểu đoàn bảo an tại điểm
cao 581 hầu như bị đánh tan. Tiểu đoàn còn lại vừa đánh vừa lùi về khu vực Nông
Trại. Bây giờ thì nhiệm vụ trước mắt của trung đoàn 44 (sư đoàn 23 QLVNCH) chưa
phải là giải toả Buôn Ma Thuột mà là ứng viện cho trung đoàn 45 đang bị vây ép.
Ngày 15 tháng 3, cánh quân còn lại của sư đoàn 23, trong đó có Sở chỉ huy nhẹ của
sư đoàn đổ quân xuống Phước An. Ngày 16 tháng 3, cả hai cụm quân của sư đoàn 23
tại Phước An và Nông Trại cùng lúc bị tấn công. Đến 8 giờ 15 phút, tiểu đoàn 3,
đơn vị cuối cùng của trung đoàn 45 (sư đoàn 23 QLVNCH) bị đánh tan, trung tá
Phùng Văn Quang và toàn bộ ban chỉ huy trung đoàn bị bắt làm tù binh cùng với
chiếc trực thăng đã nổ máy định bốc họ lên không.
Ngày 17 tháng 3, Bộ Tư
lệnh mặt trận Tây Nguyên điều tiếp trung đoàn 28 (sư đoàn 10) và tiểu đoàn xe
tăng còn lại của trung đoàn 273 tăng cường cho trung đoàn 24 tấn công Phước An.
Cùng ngày, trung đoàn 66 (sư đoàn 10) và trung đoàn đặc công 198 mở đợt tổng
công kích vào cụm quân còn lại của trung đoàn 53 và liên đoàn 21 biệt động quân
tại sân bay Hòa Bình (Phụng Dực). 11 giờ 30 sáng 17 tháng 3, sân bay Hòa Bình bị
chiếm. Trung đoàn 53 bị xóa sổ. Một nhóm nhỏ gần 20 binh sĩ của cụm quân này
thoát vây chạy về được Phước An. Trong ngày 17 tháng 3, trung đoàn 44 bị tấn
công liên tục tan rã tại Phước An. Đại tá Đức (tư lệnh mới của sư đoàn 23) đưa
sở chỉ huy nhẹ sư đoàn và hơn 700 quân còn lại về Chư Cúc. Ngay lập tức, họ bị
trung đoàn 28 (sư đoàn 10) và 1 tiểu đoàn của trung đoàn xe tăng 273 QGP truy
kích, phải bỏ Chư Cúc chạy về Pleiku. Trận phản kích của QLVNCH với ý định tái
chiếm Buôn Ma Thuột thất bại.
CUỘC RÚT
QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7
Quyết định sai lầm chiến lược của
Nguyễn Văn Thiệu
Khi trận Buôn Ma Thuột
và chiến sự ở Tây Nguyên đang diễn ra thì QLVNCH tại Quân khu I cũng đang phải
đối phó với các hoạt động của các sư đoàn 324, 325 QGP tại Trị Thiên Huế. Nhiều
đơn vị cấp tiểu đoàn của Quân Giải phóng đã xâm nhập xuống đồng bằng. Từ ngày 8
đến ngày 13 tháng 3, một số trận đánh đã nổ ra ở Truồi (phía Nam Huế), chi khu
quân sự Mai Lĩnh, căn cứ Mỏ Tàu (Thừa Thiên), các chi khu quân sự Tiên Phước, Hậu
Đức (Quảng Tín). Tại phía Nam Quân khu I, một loại căn cứ ven sông Vệ ở Quảng
Ngãi bị tiến công. Nhưng áp lực của đối phương tăng mạnh ở Quân khu I đã khiến
cho Bộ Tổng tham mưu QLVNCH không dám rút các sư đoàn thuộc lực lượng tổng trù
bị chiến lược của mình (sư dù và sư thủy quân lục chiến) để ứng cứu cho Tây
Nguyên. Ngày 11 tháng 3, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã họp với các thủ tướng
Trần Thiện Khiêm, đại tướng tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên và trung tướng Đặng
Văn Quang để bàn về việc tái phối trí lại lực lượng. Tại cuộc họp này, Nguyễn
Văn Thiệu thông báo quyết định của ông: "Với khả năng và lực lượng ta đang
có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ muốn bảo vệ. Như vậy
chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì
những vùng đất đó mới thực sự quan trọng”.
11 giờ trưa 14 tháng
3, tại Cam Ranh diễn ra một cuộc họp mà sau này, nhiều nhà bình luận quân sự
cho rằng nó là một trong những nguyên nhân gây ra một thảm họa quân sự lớn nhất
trong chiến tranh Việt Nam Tại cuộc họp, thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tổng
quát diễn biến chiến sự tại Tây Nguyên; trong đó, tướng Phú thỉnh cầu xin thêm
máy bay cho sư đoàn 6 không quân, bổ sung quân số bị tổn thất, tăng viện từ 1 đến
2 lữ đoàn dù để phòng giữ Kon Tum, Pleiku và sau đó dùng để phản kích chiếm lại
các vùng đã mất. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận đề nghị của tướng Phú với lý
do "không còn quân tăng phái, Cộng sản có thể đánh mạnh hơn năm 1972"
và lệnh cho ông này rút quân về đồng bằng, tái phối trí lại lực lượng. Về hướng
rút quân, đại tướng Cao Văn Viên lưu ý về những nguy hiểm khó lường khi rút
theo đường 19, ông nhắc lại thảm họa đã xảy ra đối với Binh đoàn cơ động số 100
của quân viễn chinh Pháp trên đường 19 năm 1954. Sau khi thảo luận nhiều lần về
việc chọn đường rút quân, Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh đã quyết định rút
theo đường số 7 vì họ cho rằng, con đường đó tuy xấu nhưng gây được bất ngờ cho
đối phương.
Trở về Pleiku, Phạm
Văn Phú không biết rằng trước đó một ngày, Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân khu I
cũng được lệnh rút các lực lượng của mình khỏi địa bàn quân khu. 16 giờ ngày 14
tháng 3, tướng Phú triệu tập ngay chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, chuẩn tướng Phạm Ngọc
Sang, chuẩn tướng Phạm Duy Tất (mới được thăng) và đại tá Lê Khắc Lý bàn việc
rút quân với mấy yêu cầu:
Về kế hoạch chung:
Bảo đảm bí mật tuyệt đối,
không làm văn bản, chỉ truyền khẩu lệnh; cấm tiết lộ cho địa phương quân và các
tiểu khu. Phải rút nhanh gọn, đem theo vũ khí và một cơ số đạn đủ cho một trận
chiến đấu. Rút theo kiểu cuốn chiếu, ở xa rút trước, ở gần rút sau.
Về điều phối:
Giao chuẩn tướng Phạm
Duy Tất chỉ huy hành quân; chuẩn tướng Cẩm đôn đốc kiểm tra; chuẩn tướng Sang
điều điều động máy bay vận tải chở hàng hóa quý hiếm, dọn sạch hai bên đường
rút quân bằng máy bay oanh tạc; đại tá Lý điều động công binh sửa đường, bắc cầu,
giữ liên lạc với Bộ chỉ huy tiền phương Quân khu II tại Nha Trang và Bộ Tổng
tham mưu tại Sài Gòn để xin tiếp ứng khi cần.
Thảm họa trên đường số 7
Mặc dù Bộ tư lệnh Quân
đoàn II QLVNCH cố gắng giữ bí mật tối đa cuộc rút quân nhưng những hoạt động nhộn
nhịp bất thường của không quân tại Pleiku trong ngày 14 tháng 3 đã gây nên những
nghi ngờ trong gia đình các sĩ quan cấp dưới, binh sĩ và cả dân chúng. Sáng sớm
ngày 15 tháng 3, một đoàn xe quân sự lớn của các liên đoàn 6 và 23 biệt động
quân từ Kon Tum di chuyển qua Pleiku xuống phía Nam càng làm cho tâm lý của
cán, chính, dân, binh thêm xao xuyến. Đến trưa ngày 15 thì mọi mệnh lệnh để ổn
định tình hình của chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và đại tá Lê Khắc Lý đều trở nên vô
hiệu. Một số sĩ quan, công chức, binh lính đã bỏ đơn vị và nhiệm sở để lo cho
gia đình di tản. Nhiều vụ cướp bóc, tống tiền đã xảy ra. Ngay cả CIA cũng bắt đầu
di tản người Mỹ khỏi Pleiku vì theo họ đánh giá, thị xã này đã giống như một
thùng thuốc súng.
13 giờ chiều 15 tháng
3, cuộc di tản của Quân đoàn II chính thức bắt đầu trong sự cập rập, vội vã.
Thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân mở đường từ Pleiku đi Phú Túc. Tiếp
đó là bộ phận còn lại của Bộ tư lệnh Quân đoàn II, bộ tư lệnh lữ đoàn 2 kỵ binh
thiết giáp, các đơn vị bộ binh, hậu cần. Theo tính toán của tướng Phú, các đơn
vị Quân Giải phóng tập trung vây đánh trung đoàn 53, căn cứ B50 ở Buôn Ma Thuột
và lo đối phó với cuộc phản kích của sư đoàn 23 tại Phước An nên phải mất ba đến
năm ngày mới có thể điều quân đến do đường sá rất xấu, cơ động khó khăn. Còn sư
đoàn 968 nếu có đuổi theo cũng phải hành quân bộ, đánh vuốt đuôi và sẽ bị liên
đoàn 25 biệt động quân cản hậu chặn đánh. Hai ngày đầu cuộc di tản diễn ra thuận
lợi. Sáng 16 tháng 3, khi đội thiết giáp đi đầu trong đoàn xe quân sự dài đến
hơn 2.000 chiếc kèm theo gần 2.000 phương tiện giao thông dân sự các loại đã đến
Cheo Reo an toàn và bắt đầu di chuyển xuống Củng Sơn thì toán cuối của đoàn xe
này mới ra khỏi thị xã Pleiku.
Kế hoạch rút quân của
Quân đoàn II QLVNCH không quá bất ngờ đối với Quân Giải phóng. Bất ngờ duy nhất
mà Tổng thống Thiệu và tướng Phú tạo ra được là cuộc di tản này được tiến hành
quá nhanh. Đến chiều 15 tháng 3, khi cánh quân đi đầu của thiết đoàn 19 đã qua
Cheo Reo, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây nguyên mới được tin QLVNCH bắt đầu rút khỏi
Pleiku và Kon Tum. 20 giờ tối 16 tháng 3, lệnh truy kích mới được ban bố. Tiểu
đoàn 9, trung đoàn 64 (sư đoàn 320 QGP) là đơn vị đầu tiên được điều động đã
hành quân cắt rừng suốt đêm để lập một chốt chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo.
Theo sát họ là đội hình chính của trung đoàn 64 hành quân trên 110 xe ô tô các
loại được huy động. Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã có ngay một kế hoạch chặn
đánh trên đường số 7, sử dụng toàn bộ sư đoàn 320, tiểu đoàn xe tăng 2 (trung
đoàn 273), trung đoàn pháo binh 675, trung đoàn cao xạ 593 và hai tiểu đoàn
quân địa phương ở Phú Yên.
Sáng 17 tháng 3, tốp
xe tăng, thiết giáp đi đầu của thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân
QLVNCH đã chạm súng với tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tại đèo Tuna, cách Cheo Reo 4 km về Đông đông Phú Bổn. Đoàn xe di tản khổng
lồ ứ lại tại Cheo Reo. Từ chiều tối 17 đến sáng 18 tháng 3, chuẩn tướng Tất sử
dụng liên đoàn 7 biệt động quân với sự yểm họ của không quân, pháo binh và thiết
giáp liên tục công kích nhổ chốt, vu hồi bọc chốt để mở đường nhưng đều bị đẩy
lùi. Sáng 18 tháng 3, toàn bộ trung đoàn 64 (sư đoàn 320A Quân Giải phóng) đã
triển khai xong các chốt chặn tiếp theo phía hạ lưu đèo Tuna; trung đoàn 48
(thiếu) của sư đoàn này và trung đoàn 9 (sư đoàn 968) đã bao vây Cheo Reo từ ba
mặt.
Trưa ngày 18, chuẩn tướng
Phạm Văn Tất điều liên đoàn 25 biệt động quân đang làm nhiệm vụ cản hậu vượt
lên trước cùng với lữ đoàn 2 thiết kỵ mở cuộc công kích cuối cùng để mở đường.
Cũng thời điểm đó, các đơn vị pháo binh của trung đoàn 675 bắt đầu pháo kích
các vị trí đóng quân tạm thời của QLVNCH trong thị xã Cheo Reo và 3 trung đoàn
bộ binh Quân Giải phóng bắt đầu tấn công. Trong sự hỗn loạn, mọi cố gắng ổn định
lại tình hình và tổ chức kháng cự của các vị chỉ huy QLVNCH trở nên vô vọng. 17
giờ chiều, chuẩn tướng Phạm Duy Tất nhận được lệnh phá bỏ tất cả các chiến cụ nặng.
17 giờ 30, một chiếc HU-1A vượt qua làn đạn phòng không của đối phương hạ cách
xuống sân trường tiểu học Phú Bổn để đưa tướng Tất và đại tá Hoàng Thọ Nhu (tỉnh
trưởng Pleiku) về Nha Trang. Đến 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3, các đơn vị QLVNCH
bị vây tại Cheo Reo chấm dứt kháng cự. Chỉ có thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt
động quân về được đến Củng Sơn với ít thiệt hại, thương vong nhất. Trên đường về
Tuy Hoà, họ phải dừng lại tại sông Ba bốn ngày để chờ công binh thiết lập lại bến
phà. Cuối cùng, các đơn vị này về đến Tuy Hòa ngày 25 tháng 3 năm 1975.
KẾT QUẢ
VÀ Ý NGHĨA
QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
Thắng lợi của Chiến dịch
Tây Nguyên đã làm rung chuyển, đảo lộn cả thế trận của QLVNCH khiến cho QLVNCH
thực sự hoảng sợ và hỗn loạn. Phía Quân Giải phóng miền Nam đã tận dụng thế trận
này chiếm hết toàn bộ vùng cao nguyên, cắt những quân khu miền trung của VNCH
ra làm đôi.. Điều này khiến cho chiến thắng đến với QGP với tốc độ nhanh hơn rất
nhiều.[79] Theo báo Nhân dân: "Chiến dịch Tây Nguyên thực sự là đòn điểm
huyệt quân đội Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975...mở
đầu cho sự cáo chung của chế độ Sài Gòn"[80]
Thượng tướng Đặng Vũ
Hiệp, nguyên Chính ủy Chiến dịch Tây Nguyên cũng tâm niệm và nhắc lại:
"Chiến thắng Buôn Ma Thuột mãi mãi là dấu
son trên trang sử vẻ vang của quân đội ta. Nó là kết quả của cả một quá trình
chuẩn bị lâu dài của quân và dân Tây Nguyên. Nếu chúng ta đều biết tới hình ảnh
từng đoàn dân công gồm cả người già, trẻ em của các buôn làng đã đi gùi đạn,
gùi gạo, mở đường cho chiến dịch; nếu chúng ta biết tới những đồng chí cán bộ của
Đảng đã từng cà răng căng tai, sống hàng vài chục năm với đồng bào các dân tộc
Tây Nguyên để bám dân, bám đất xây dựng địa bàn, xây dựng chỗ cho chúng ta đứng
chân mà đánh giặc; nếu chúng ta biết rằng trước khi chúng ta có xe pháo mà mở
những trận đánh lớn như vậy đã có hàng ngàn đồng chí đi trước mở đường, mở địa
bàn, giành đi giật lại với địch từng tấc đất trong điều kiện đói cơm, rách áo,
thiếu thuốc men, thiếu vũ khí kéo dài hàng chục năm ròng để chúng ta có những
quân hùng tướng mạnh mà đánh địch với thế mạnh như chẻ tre. Nếu chúng ta biết một
cách đầy đủ tất cả những gì diễn ra trước khi có trận Buôn Ma Thuột, có mùa
xuân cao nguyên 1975, thì chúng ta càng thấy tự hào hơn về Đảng ta, nhân dân ta
và quân đội ta"
Ý nghĩa về phương diện học thuật quân
sự
Chiến thắng Tây Nguyên
mang ý nghĩa lớn về học thuật. Tại đây, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã
đánh mục tiêu chủ yếu (Buôn Ma Thuật) vào đúng nơi hiểm nhưng yếu của QLVNCH và
khiến cho nó "yếu" hơn bằng cách nghi binh điều QLVNCH lên hướng bắc,
đồng thời bí mật cơ động lực lượng lớn về hướng nam, nhờ vậy Quân Giải phóng đã
tập trung ưu thế áp đảo ở nơi cần thiết, tạo yếu tố bất ngờ. Quân Giải phóng đã
bố trí thế trận hiểm, chia cắt chiến lược và chiến dịch địch, khiến các cụm
quân của QLVNCH bị cô lập. Từ đó buộc QLVNCH phải chấp nhận các tình huống mà
Quân Giải phóng đã dự kiến (thí dụ: do thế trận của Quân Giải phóng, QLVNCH chỉ
còn một khả năng duy nhất là đổ bộ trực thăng xuống đường 21 sau khi mất Buôn
Ma Thuật. Tại đây, Quân Giải phóng đã bố trí sẵn sàng Sư đoàn 10 và Trung đoàn
25. Có nghĩa là QLVNCH đã rơi vào đúng kế, đúng định của Quân Giải phóng). Nắm
thời cơ có QLVNCH rút chạy, phía Quân Giải phóng đã kịp thời và kiên quyết truy
kích tiêu diệt QLVNCH, đưa QLVNCH đến thất bại chưa từng có. Ngoại trừ một
nguyên nhân khách quan rằng Quân đoàn II QLVNCH tự tan rã quá nhanh làm mất mát
đến 1/4 lực lượng chính quy này.
QUÂN LỰC VNCH
Tổn thất quân sự và dân sự
Đại tướng Cao Văn Viên
nhận xét: "Cuộc triệt thoái khỏi cao
nguyên là một thất bại chiến lược về phương diện quân sự. 75% lực lượng của
Quân đoàn 2, gồm sư đoàn 23, biệt động quân, thiết kỵ, pháo binh, truyền tin và
công binh bị hao tổn chỉ trong 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột cũng bị
thất bại vì Quân đoàn không còn quân. Cộng sản chiếm được Kon Tum và Pleiku
không tốn một viên đạn".
Theo các nhà bình luận
quân sự phương Tây, thất bại trong của cuộc rút lui của Quân đoàn II QLVNCH
trên đường số 7 kèm theo những tổn thất rất nặng nề cả về quân sự và dân sự. Ít
nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị bắt sống hoặc đào ngũ. Cơ quan CIA tại
Sài Gòn nhận xét rằng chỉ cần một sư đoàn rút về được đến ven biển với tổn thất
tối thiểu cũng đã là một sự may mắn. Số tài sản quân sự gồm xe tăng M48 Patton,
xe bọc thép M-113, đại bác M-107 175 mm, đại bác HM-3 155 mm, đại bác HM-2 105
mm bị phá hủy hoặc rơi vào tay Quân Giải phóng lên đến con số hàng nghìn.
Phía Quân Giải phóng
cho biết họ chỉ sau tám ngày cuối chiến dịch, họ đã loại khỏi vòng chiến 28.514
sĩ quan và binh sĩ QLVNCH, trong số đó có 4.502 chết hoặc bị thương, 16.822 người
bị bắt làm tù binh, có 779 sĩ quan từ chuẩn úy đến chuẩn tướng; chỉ có 7.190
người được thả. Họ đã thu giữ và phá 17.183 súng các loại, trong đó có 79 khẩu
pháo từ 105 mm trở lên, gồm 48 khẩu pháo 105mm, 14 khẩu 155mm và 12 khẩu M107
175mm (mệnh danh Vua Chiến trường); phá hủy và thu giữ hơn 2.000 xe quân sự,
trong đó có 207 xe tăng và xe bọc thép; bắn rơi 44 máy bay, thu và phá 110 chiếc
khác của Không lực VNCH. Về phía họ, chỉ tổn thất 56 người chết và hơn 100 người
bị thương.
Trong cuộc di tản hỗn
độn, các sĩ quan và binh sĩ QLVNCH đem theo cả gia đình họ và cùng với những
nhân viên dân sự chen chúc nhau trên con đường ngập cỏ, bụi cây đã rơi vào tình
thế cực kỳ náo loạn và thậm chí còn bị chính máy bay của họ bắn nhầm trong một
cuộc hành trình đầy nước mắt. Thậm chí khi các cây cầu bị phá hủy, đoàn xe dồn ứ
lại, các xe quân sự vẫn lao đại qua sông rồi chìm nghỉm, thậm chí cán qua các
xe khác. Những binh sĩ đào ngũ của VNCH lợi dụng cơ hội đã cướp bóc dã man nhiều
gia đình sĩ quan và cả dân thường hoặc công chức chính quyền. Số binh sĩ bị chết
do xe cán lên tới vài nghìn. Trong số gần 400.000 người di tản xuống đồng bằng
thì chỉ có non một phần tư đến nơi, số còn lại tan rã, thất lạc tứ tán. Cuộc
thoái lui của binh lính và viên chức VNCH đã trở thành một cuộc tháo chạy tán loạn,
vô tổ chức, vô kỷ luật, thể hiện sự yếu kém và hèn nhát của QLVNCH. Chính sự hoảng
loạn này đã đẩy quá trình sụp đổ của chính quyền Sài Gòn tới gần hơn.
Theo tính toán của Hoa
Kỳ, sự tổn thất vượt quá mọi sự đo lường. Trong số 60.000 quân khởi hành thì chỉ
có 20.000 về đến đích và hầu như không còn sức chiến đấu. Trong số 7.000 biệt động
quân chỉ còn 700 đến đích. Sau trận Buôn Ma Thuột và cuộc rút lui thảm họa trên
đường số 7, Quân đoàn II không còn thực sự hiện hữu như là một lực lượng chiến
đấu tương xứng với quy mô của nó nữa.
Nguyên nhân thất bại của VNCH
Nguyên nhân thất bại của
VNCH xuất phát trước hết từ việc mất hết bình tĩnh khi đánh giá tình hình của tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu. Nếu như trước đây, ông đã quá tin vào cơ quan tình báo
quân đội nhưng đến khi bị gài thế về quân sự quá chặt, không kịp trở tay gỡ ra
thì lại quay ra mất tin tưởng hoàn toàn vào tình báo quân đội. Từ khi Buôn Ma
Thuột thất thủ, thái độ của Nguyễn Văn Thiệu đã làm cho cơ quan này mất sự tự
tin và bản thân ông ta cũng coi cơ quan tình báo quân đội có cũng như không cho
đến tận phút chót của cuộc chiến. Việc mất lòng tin vào cơ quan tình báo quân đội
và kể cả vào CIA đã dẫn đến những sai lầm chiến lược quân sự của Nguyễn Văn Thiệu
và ông ta đã bỏ ngoài tai những lời bàn thảo hợp lý của các tướng lĩnh, kể cả đại
tướng Cao Văn Viên để rồi tự mình định đoạt mọi chuyện. Khi thiếu tướng Phạm
Văn Phú khăng khăng đòi tăng quân để bảo vệ Tây Nguyên thì ông Thiệu đã đặt ra
cho tướng Phú hai lựa chọn: hoặc là thi hành lệnh, hoặc là bị thay thế và ngồi
tù để người khác thi hành lệnh. Và đương nhiên, tướng Phú chọn giải pháp chấp
hành.
Nguyên nhân thứ hai dẫn
đến việc thất thủ ở Tây Nguyên là sự quá tin tưởng của Nguyễn Văn Thiệu vào sự
chi viện trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ. Trong khi cả Quân đoàn II của tướng
Phú đang phải vật lộn sống chết trên đường số 7 và mặc dù biết rằng "nội một
vài ngày tới, tình hình sẽ trầm trọng hết sức mau lẹ" nhưng ông vẫn hy vọng
vào việc "đặt với Hoa Kỳ câu hỏi "yes or non" (có hay không) buộc
họ phải dứt khoát có muốn giúp hay không". Trong khi đó thì lời tuyên bố của
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Jame Schlesinger sau khi được tin Phước Long thất
thủ và lời an ủi của Thứ trưởng William Clement đã chứng tỏ phần nào việc Hoa Kỳ
không muốn dính líu trở lại về quân sự tại Việt Nam.
Nguyên nhân thứ ba làm
cho việc thất thủ Tây Nguyên của QLVNCH là họ muốn một cuộc rút quân có tổ chức,
có chỉ huy, có giữ bí mật nhưng chính sự yếu kém về tổ chức và tính linh hoạt
khi xử lý các tình huống đã làm hại họ. Lực lượng đông, binh khí kỹ thuật nhiều
nhưng lại kéo dài đội hình trên đường độc đạo nên khó tránh được ùn tắc. Đoàn
quân này lại kéo theo cả hàng vạn thường dân, trong đó quá nửa là gia đình các
sĩ quan, binh sĩ và công chức, rất khó tránh khỏi rối loạn khi gặp tình huống bất
ngờ. Hy vọng duy nhất có thể trông cậy được là tính bất ngờ thì chỉ sau hai
ngày cũng không còn. Khi bị đối phương chặn đánh quyết liệt thì sự tan rã không
phải là điều khó hiểu. Báo cáo tường trình về cuộc rút quân của khỏi Tây Nguyên
của Bộ tư lệnh Quân đoàn II trình tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ghi nhận:
"Cuộc hành quân dự trù không có áp lực của đối phương; nhưng khi thực thi
đã gặp áp lực nặng nề làm cho chỉ huy lúng túng không sao đối phó được".
Nguyên nhân cuối cùng
dẫn đến thất bại ở Tây Nguyên năm 1975 của QLVNCH là yếu tố tinh thần. Cuộc chiến
kéo dài dai dẳng nhiều năm làm cho tinh thần binh sĩ sa sút. Sự bi quan trong
các sĩ quan chỉ huy còn tăng thêm khi ngoại trưởng Trần Văn Lắm từ Hoa Kỳ trở về
thông báo khả năng Mỹ tăng thêm viện trợ gần như không còn và phái đoàn của Quốc
hội Hoa Kỳ cũng không hứa hẹn gì trong cuộc đi thăm chính thức hồi tháng 2 năm
1975. Khi rút quân, phần lớn các sĩ quan và binh sĩ QLVNCH đem theo cả gia
đình. Lúc lâm trận, không ít người đã bỏ đi tìm người nhà thay vì xông ra giao
chiến; và lòng trung thành của họ với gia đình nhiều hơn là với cấp chỉ huy đã ảnh
hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của họ.
Từ thời chiến tranh
Đông Dương 1945-1954, người Pháp và Việt Minh đều coi Tây Nguyên là mái nhà và
là cái chìa khóa của Đông Dương. Mất các căn cứ cơ bản trụ cột phòng thủ cao
nguyên mà trong tay không còn lực lượng dự bị cơ động nào khả dĩ nào để có thể
xoay chuyển tình thế, QLVNCH ở vào tình thế rất nguy hiểm. Những lực lượng của
họ tuy còn khá đông nhưng lại chiếm giữ một cách không chắc chắn dải đất hẹp
ven biển miền Trung và có nguy cơ bị tấn công chia cắt bất cứ lúc nào. Quyết định
bỏ Tây Nguyên và rút các lực lượng còn lại về cố thủ dải đồng bằng ven biển miền
Trung của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc họp ngày 14 tháng 3 tại căn cứ
quân sự Cam Ranh với các ông Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm và Phạm Văn Phú mặc
dù có một trong những nguyên nhân là tình trạng suy yếu lực lượng của Việt Nam
Cộng hòa lúc đó nhưng đã trở thành một lỗi lầm chí tử. Kế hoạch này cùng với việc
thực hiện rút quân thiếu tổ chức không những không cứu vãn được tình thế của
Quân đoàn II mà còn đẩy họ đến chỗ bị tiêu diệt và tan rã, mở đầu cho sự sụp đổ
không tránh khỏi của Việt Nam Cộng hoà.
WIKIDEDIA
Nhận xét
Đăng nhận xét