Bài 2-CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN [Phần 1]
Bài 2
CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN
[Phần 1]
Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh
Chiến dịch 275, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động tấn công. Với cuộc tiến
công của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 10 tháng 3 năm 1975 vào
Buôn Ma Thuột, cánh Nam của Quân đoàn II, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị sụp
đổ. Những nỗ lực tái chiếm Buôn Ma Thuột của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
(QLVNCH) trong các trận phản công ngày 11 và 13 tháng 3 đều thất bại. Ngày 14
tháng 3, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, đồng thời là Tổng tư lệnh
Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã có một bước đi hết sức sai lầm khi ông ta quyết định
rút quân trên toàn địa bàn Tây Nguyên để về giữ miền duyên hải Trung bộ. Ba
ngày sau đó, hầu như toàn bộ Quân đoàn II Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị tiêu diệt
và tan rã trong cuộc rút quân hỗn loạn trên con đường số 7 định mệnh.
Chiến dịch này đã tạo nên một lỗ hổng rất lớn trong tuyến phòng thủ
quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại địa bàn Quân khu II - Quân đoàn II
QLVNCH. Chiến dịch này mở đầu cho những thất bại quân sự khó có thể cứu vãn nổi
của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Cùng với những sai lầm có tính chiến lược trong
phương án và cách thức điều quân, phối trí lại lực lượng của các cấp chỉ huy
QLVNCH mà đứng đầu là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chiến dịch này đã tạo nên những
đột biến lớn trên chiến trường mở đầu cho sự thất bại và tan rã toàn diện của
QLVNCH tại miền Nam Việt Nam chỉ trong 55 ngày mùa xuân năm 1975, dẫn đến sự chấm
dứt Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) và tái thống nhất Việt Nam sau 21 năm bị
chia cắt.
LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ CỦA CÁC BÊN
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
Lực lượng Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam tham chiến tại Mặt trận Tây Nguyên tháng 3 năm 1975 ban
đầu được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên (mật danh
275) trên cơ sở tổ chức lại Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) trước đây. Ngày
5 tháng 2 năm 1975, Bộ Tư lệnh được thành lập do Trung tướng Hoàng Minh Thảo
làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm chính uỷ, Thiếu tướng Vũ Lăng (nguyên Cục
trưởng Cục tác chiến) và các đại tá Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang làm Phó
tư lệnh. Đại tá Phí Triệu Hàm làm Phó chính uỷ, Đại tá Hồ Đệ làm Tham mưu trưởng
Quân đoàn kiêm Sư trưởng sư 10, sau làm Phó Tư lệnh quân đoàn 3.
Trực tiếp chiến đấu
Bộ binh:
Các sư đoàn 2 Quảng-Đà,
10 Đắktô, 316 Bông Lau, 320A Đồng Bằng, 968 Trường Sơn.
Các trung đoàn độc lập:
25, 271, 95A, 95B.
Đặc công: Trung đoàn
198 và 2 tiểu đoàn độc lập 14, 27.
Xe tăng-thiết giáp:
Trung đoàn 273.
Pháo binh: Các trung
đoàn 40 và 675.
Phòng không: Các trung
đoàn 232, 234, 593.
Bảo đảm chiến đấu
Công binh: Các trung
đoàn 7 và 575.
Thông tin: Trung đoàn
29.
Vận tải: một trung
đoàn ô tô.
Tổng quân số các đơn vị
Quân Giải phóng thuộc Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên là 65.141 người, trong
đó có 44.900 người trực tiếp tham gia chiến đấu (có khoảng hơn 1000 bộ đội địa
phương, du kích và TNXP tham chiến). Khối chủ lực có quân số 43.020 người; các
đơn vị này được trang bị 57 xe tăng, 88 khẩu pháo lớn từ 105 mm đến 130 mm hàng
trăm khẩu pháo 85 mm và cối 120, 160 mm, 6 bộ khí tài tên lửa chống tăng B-72,
1.561 súng chống tăng B-40, B-41, hàng vạn súng bộ binh RPD, RPK, AK-47, K-63
và CKC, 343 súng phòng không các cỡ, 679 ô tô các loại. Các kho dự trữ hậu cần
của mặt trận Tây Nguyên bảo đảm cung cấp cho các đơn vị từ 2 đến 3 tháng trong
điều kiện chiến đấu liên tục.
Đầu tháng 3 năm 1975,
các lực lượng nói trên được bố trí như sau:
Cụm Buôn Ma Thuột: Sư
đoàn bộ binh 316, trung đoàn bộ binh 95B, trung đoàn bộ binh 24 (thiếu tiểu
đoàn), tiểu đoàn bộ binh 4 (trung đoàn 24), trung đoàn đặc công 198, trung đoàn
xe tăng 273 (thiếu 1 tiểu đoàn), 2 trung đoàn pháo binh 40 (thiếu) và 675, 2
trung đoàn công binh 7 và 575, trung đoàn thông tin 29.
Cụm Đức Lập: Sư đoàn
10 bộ binh (thiếu trung đoàn 24), trung đoàn bộ binh 271, tiểu đoàn đặc công
14, một tiểu đoàn pháo binh (thuộc trung đoàn pháo binh 40), 2 tiểu đoàn phòng
không (thuộc trung đoàn phòng không 234.
Khu vực đường 19 từ
Bình Khê đi Pleibon: Sư đoàn 2, trung đoàn 95A.
Cụm Thuần Mẫn - đường
14: Sư đoàn bộ binh 320A (binh chủng hợp thành) được bổ sung một trung đoàn của
F968.
Cụm Pleiku-Kon Tum: Sư
đoàn 968 (thiếu) và lực lượng vũ trang 2 tỉnh đảm nhiệm.
Khu vực đường 21:
trung đoàn bộ binh 25.
Ngoài ra, để thực hiện
thành công kế hoạch nghi binh và tấn công của mình, Quân Giải phóng đã huy động
được sự hỗ trợ từ những người đồng bào dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên. Họ giúp
đỡ làm đường, kéo pháo, đặc biệt là phao tin để kế hoạch nghi binh thành công. Phối
hợp với hoạt động của quân chủ lực, các đơn vị vũ trang địa phương tỉnh, huyện
và dân quân du kích các buôn làng đã tham gia chiến đấu, phục kích tiêu diệt
binh lính VNCH trên đường rút chạy. Những vùng VNCH kiểm soát ở Bắc Tây Nguyên
đã nổ ra gần 200 cuộc biểu tình thu hút hàng vạn người tham gia đấu tranh. Binh
vận là một mũi giáp công quan trọng. Ở vùng dân tộc thiểu số, binh vận không chỉ
đánh vào QLVNCH mà còn góp phần làm tan rã hệ thống chính quyền của VNCH. Bằng
các hình thức rải truyền đơn, viết thư tay cho thân nhân trong binh lính VNCH
và công chức, nhân viên VNCH, chỉ riêng đồng bào các dân tộc ở Đắc Lắc đã làm
rã ngũ 1000 lính VNCH và 250 chính quyền cấp xã. Các địa phương khác như Gia
Lai, Kon Tum, Lâm Đồng... làm tan rã hàng chục đơn vị vũ trang của QLVNCH.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Vùng duyên hải Trung-Nam Trung bộ
Bộ binh: Sư đoàn 22 (4
trung đoàn: 41, 42, 43, 52) và 45 tiểu đoàn bảo an.
Pháo binh: 5 tiểu đoàn
với 146 khẩu các cỡ từ 105 đến 155 mm.
Xe tăng-Thiết giáp: 1
thiết đoàn và 8 chi đội tổng cộng 117 xe
Không quân: 12 phi
đoàn gồm 102 máy bay chiến đấu phản lực và cánh quạt, 164 trực thăng, 69 máy
bay vận tải, trinh sát và huấn luyện.
Hải quân: 2 hải đoàn
tuần duyên, 2 giang đội trên sông
Chỉ huy cụm quân tại
duyên hải miền Trung thuộc địa bàn Quân đoàn II - Quân khu II là Chuẩn tướng Lê
Văn Thân, phó tư lệnh phụ trách về lãnh thổ. Lực lượng hải quân do Phó đề đốc
Hoàng Cơ Minh tư lệnh vùng 2 hải quân chỉ huy. Các sĩ quan chỉ huy cấp dưới và
các lực lượng có Chuẩn tướng Phan Đình Niệm, tư lệnh sư đoàn 22; các tiểu khu
quân sự cấp tỉnh do các đại tá tỉnh trưởng phụ trách gồm: đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh
trưởng Khánh Hòa, đại tá Trần Đình Vi, tỉnh trưởng Bình Định, đại tá Vũ Quốc
gia, tỉnh trưởng Phú Yên, đại tá Nguyễn Văn Tư, tỉnh trưởng Ninh Thuận, đại tá
Ngô Tấn Nghĩa, tỉnh trưởng Bình Thuận.
Vùng Cao nguyên
Bộ binh: Sư đoàn 23 (3
trung đoàn: 44, 45, 53), 7 liên đoàn biệt động quân (4, 6, 21, 22, 23, 24, 25;
các đơn vị này có quân số tương đương 10 trung đoàn), 36 tiểu đoàn bảo an.
Pháo binh: 8 tiểu đoàn
với 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175 mm.
Xe tăng-thiết giáp: 4
thiết đoàn với 371 xe
Không quân: 1 phi đoàn
chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 phi đoàn vận tải,
trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
Bộ tư lệnh tiếp vận
Quân khu II - Quân đoàn II QLVNCH có các kho dự trữ đủ khả năng cung cấp cho
Quân đoàn chiến đấu ác liệt trong hai tháng.
Theo đại tá Phạm Bá
Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục tiếp vận QLVNCH, các lực lượng này được bố trí
theo thế "nặng đầu nhẹ đuôi" trên địa bàn Cao nguyên trung phần.[13]
Trung đoàn 44 (sư đoàn 23) và 3 thiết đoàn xe tăng, 5 tiểu đoàn pháo, 5 liên
đoàn biệt động quân (6, 22, 23, 24, 25) đóng quanh khu vực Kon Tum - Pleiku và
chốt giữ đường 19 đi An Khê (Bình Định); toàn bộ 4 phi đoàn không quân đóng tại
sân bay Cù Hanh; Trung đoàn 45 (sư đoàn 23) và 1 chi đoàn thiết giáp (thuộc thiết
đoàn 8) giữ Quảng Đức, liên đoàn 4 biệt động quân và 1 tiểu đoàn pháo binh giữ
Thanh An - Đồn Tằm. Tại Buôn Ma Thuột chỉ có trung đoàn 53, liên đoàn 21 biệt động
quân, trung đoàn pháo binh 232, thiết đoàn 8 (thiếu) và một chi đội thiết giáp,
3 liên đoàn bảo an, hậu cứ trung đoàn 45 (khu B50), các đơn vị hậu cứ và Bộ chỉ
huy nhẹ của sư đoàn 23. Tổng số quân 8.350 người, trong đó có 5.920 quân đóng tại
các căn cứ trong thị xã, 2.430 quân đóng tại các cứ điểm ngoại vi thị xã. Lực
lượng này được trang bị 19 pháo 105 mm, 4 pháo 155 mm, 16 xe tăng M-41 và M48,
50 xe bọc thép M-113, phi đội trinh sát có 6 máy bay trinh sát L-19 và trực
thăng UH-1 tại sân bay Hòa Bình (Phụng Dực).
Thiếu tướng Phạm Văn
Phú chỉ huy các lực lượng của Quân đoàn II-QLVNCH. Các chỉ huy cấp tại cụm quân
Cao nguyên có Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm phó tư lệnh phụ trách hành quân; chuẩn
tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân, chuẩn tướng Lê Trung Tường,
tư lệnh sư đoàn 23; Đại tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn; Đại tá Phạm
Duy Tất, chỉ huy biệt động quân, đại tá Vũ Thế Quang, Phó tư lệnh sư đoàn 23.
Các tiểu khu quân sự tỉnh do các đại tá tỉnh trưởng nắm giữ gồm: đại tá Phạm
Văn Nghìn, tỉnh trưởng Quảng Đức, đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Đắc Lắc
và tỉnh trưởng các tỉnh trưởng Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn, Tuyên Đức.
Trên toàn mặt trận Tây
Nguyên, so với lực lượng QLVNCH, lực lượng bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam ít hơn một chút và kém hơn đáng kể về hỏa lực hạng nặng (xe tăng, xe thiết
giáp, pháo cỡ lớn và máy bay). Nhưng do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập
trung chủ lực tại cánh Nam trong khi phần lớn QLVNCH kéo về phòng thủ tại cánh
Bắc (do bị mắc bẫy nghi binh của đối phương), nên tại điểm quyết chiến Buôn Ma
Thuột vào giờ khai hỏa, ưu thế của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam so với
QLVNCH tại đây có tỉ lệ áp đảo: bộ binh 5:1, thiết giáp 2:1, pháo lớn 2:1. Ưu
thế này bảo đảm cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khả năng thắng lợi nhanh
chóng do đối phương khó có khả năng cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu.
Ý ĐỒ CHIẾN
LƯỢC. CHIẾN THUẬT QUÂN SỰ CỦA CÁC BÊN
Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam
Từ ngày 17 đến ngày 19
tháng 2, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên họp mở rộng để bàn phương án tác chiến.
Đánh giá tình hình Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên địa bàn, các tướng lĩnh và
sĩ quan chỉ huy cao cấp của Bộ Tư lệnh chiến dịch thống nhất nhận định:
Đối phương có thể huy
động cao nhất từ 5 đến 7 đơn vị cấp trung đoàn để lần lượt phản đội kích ngăn
chặn cuộc tấn công. Nếu không phải đối phó trên nhiều hướng, đối phương có thể
huy động lực lượng dự bị chiến lược và từ các quân khu khác khoảng từ 9 đến 12
trung đoàn.
Do phải cơ động bằng
đường bộ, và nếu phái đối phó trên nhiều hướng tiến công, các đơn vị phản kích
của đối phương (nếu có) sẽ chỉ có thể đến chiến trường từ 3 đến 4 trung đoàn một
lượt. Nếu đối phương cơ động đường không thì với lực lượng máy bay và bãi đáp,
sân bay hiện có, mỗi ngày chỉ có thể đưa một trung đoàn vào trận.
Đối phương có thể huy
động chi viện đến mặt trận từ 1 đến 2 thiết đoàn, sử dụng từ 3 đến 5 tiểu đoàn
pháo lớn cho hướng chủ yếu và chi viện không quân khoảng 80 lần chiếc/ngày. Hội
nghị cũng dự kiến không quân Hoa Kỳ có thể tham chiến trở lại với cường suất
100 đến 120 lần chiếc/ngày.
Căn cứ tình hình bố
trí binh lực hai bên, hội nghị đã vạch ra 5 vấn đề lớn về tác chiến gồm có:
Hướng và khu vực tác
chiến chủ yếu là thị xã Buôn Ma Thuột - Đức Lập. Mục tiêu quyết định là thị xã
Buôn Ma Thuột.
Hướng và mục tiêu quan
trọng là khu vực Cẩm Ga (Thuần Mẫn) để cắt đứt đường 14, chia cắt các lực lượng
đối phương ở Bắc Tây Nguyên và Nam Tây Nguyên, ngăn chặn cánh quân ở khu vực
Kon Tum - Pleiku xuống ứng cứu cho Buôn Ma Thuột.
Hướng phát triển chiến
dịch đến Phú Bổn và Quảng Đức, chủ yếu là Phú Bổn, gồm cả thị xã Cheo Reo.
Hướng bao vây chia cắt
chiến dịch là cắt đứt đường 19 trên tuyến Pleiku - An Khê - đông Bình Khê, cắt
đứt đường 21 ở phía Đông và Tây Chư Cúc, chặn cánh quân đồng bằng duyên hải từ
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lên ứng cứu cho Tây Nguyên đồng thời ngăn chặn
cánh quân ở Tây Nguyên rút về đồng bằng ven biển.
Hướng nghi binh chiến
dịch là Pleiku và Kon Tum, các đơn vị ở lại trên hướng này phải tạo thế chuẩn bị
tấn công, kiềm chế, giam chân khối chủ lực của Quân đoàn II tại khu vực Pleiku
- Kon Tum.
Bộ Tư lệnh chiến dịch
Tây Nguyên đưa ra hai phương án tác chiến để lựa chọn:
Phương án thứ nhất:
Tấn công khi đối
phương chưa điều toàn bộ sư đoàn 23 và các đơn vị tăng cường khác về phòng thủ
Buôn Ma Thuột. Đây là phương án lý tưởng nhất, đảm bảo tháng nhanh gọn và ít
gây thiệt hại cho các mục tiêu dân sự trong thị xã. Điều này phụ thuộc vào hiệu
quả thực hiện nghi binh chiến lược trên hướng Pleiku-Kon Tum bảo đảm giam chân
4 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn xe tăng-thiết giáp và 5 liên đoàn biệt động
quân đang bố trí tại đây
Phương án thứ hai:
Tấn công khi đối
phương đã tăng cường phòng thủ thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là phương án đánh chắc
tiến chắc và cuộc chiến sẽ giằng co ác liệt gay go.
Bộ Tư lệnh chiến dịch
yêu cầu các đơn vị dưới quyền tổ chức chuẩn bị tấn công theo phương án 2; trong
khi thực hiện phải tạo thời cơ và nhanh chóng chuyển sang phương án 1 khi điều
kiện thời cơ xuất hiện.
Quân Giải phóng đã
phát hiện ra điểm yếu trong toàn bộ tuyến phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa do tập trung phần lớn lực lượng mạnh nhất của mình ở Quân khu I (phía Bắc
đèo Hải Vân) và quân khu III (quanh Sài Gòn). Quân khu II, trong đó có địa bàn
trọng điểm Tây Nguyên chính là địa đoạn yếu nhất trên toàn bộ tuyến phòng thủ
do chỉ có một quân đoàn đóng giữ. Quân đoàn này lại phải bổ đôi lực lượng cho
hai khu vực đồng bằng và cao nguyên, giao thông không thuận tiện, dễ bị chia cắt.
Địa đoạn yếu này lại càng yếu hơn khi các lực lượng mạnh nhất tập trung ở cánh
Bắc xung quanh Pleiku - Kon Tum và gần như để ngỏ cánh Nam với Buôn Ma Thuột là
trọng điểm. Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên cho rằng khi mất Tây Nguyên QLVNCH
sẽ khó tổ chức phản công tái chiếm vì sẽ phải điều từ 5 tới 6 sư đoàn đến chiến
trường trong khi không có đủ lực lượng để bảo vệ Quân khu III, Biệt khu thủ đô
và Quân khu I sát miền Bắc nếu các Quân khu này cũng đồng thời bị tấn công.
Phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Ngày 18 tháng 2 năm
1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập phiên họp các tướng lĩnh tại Dinh Độc
lập để soát xét việc thực thi Kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt 1975 đã được Hội
đồng An ninh quốc gia phê chuẩn hồi tháng 12 năm 1974. Trong báo cáo "Ước
lượng tình báo" do Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng phòng 2 Bộ Tổng tham mưu
có một số điểm đáng chú ý:
Lực lượng tổng trù bị
của Bắc Việt gồm 7 sư đoàn vẫn đóng tại vùng "cán xoong" phía Bắc
Quân khu I nhưng các sư đoàn 312, 316 và 341 đang có hiện tượng chuẩn bị di
chuyển.
Nhiều dấu hiệu cho thấy
đối phương có thể phát động tấn công Xuân-Hè 1975 trong một ngày gần đây. Mấu
chốt của cuộc tấn kích này vẫn là phá bình định, giành đất, giành dân.
Quân khu II sẽ là hướng
trọng điểm, hai quân khu bạn (I và III) là hướng phối hợp.
Ngay sau Hội nghị, Thiếu
tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân đoàn II trở về Pleiku và tức khắc triệu tập chỉ
huy trưởng các đơn vị và các tiểu khu quân sự dưới quyền bàn cách đối phó. Thế
bố trí "nặng đầu nhẹ đuôi" như hiện có theo tướng Phú là phù hợp vì Đại
tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 Bộ tham mưu Quân đoàn cho biết thám báo mặt đất,
thám sát điện đài và trinh sát đường không đã phát hiện Sư đoàn 968 của đối
phương mới từ Lào về nhưng chưa biết sẽ di chuyển đến đâu. Tại khu vực Pleiku -
Kon tum, đối phương đã có hai sư đoàn 10 và 320, chỉ có hai trung đoàn 271, 201
bố trí sát Quảng Đức. Chỉ có trung đoàn 205 bố trí ở Tây Bắc Buôn Hồ (Bắc Buôn
Ma Thuột). Đại tá Tiếu phán đoán: Nếu đánh lớn, đối phương sẽ lấy Pleiku - Kon
tum làm "điểm", những vùng còn lại chỉ là "diện". Nếu đánh
vừa họ có thể sẽ chiếm nốt Quảng Đức để nối liền với Phước Long và mở thông
hành lang Đông Trường Sơn, chuẩn bị cho năm sau tổng công kích. Khi đó, điểm
quyết định phải là Đông Nam Bộ. Không có sĩ quan cao cấp nào của Quân đoàn II
có ý kiến đánh giá khác. Chỉ có đại tá Phạm Văn Nghìn, tiểu khu trưởng đồng thời
là tỉnh trưởng Quảng Đức xin thêm 1.000 quân tăng phái. Với các phân tích trên,
Phạm Văn Phú kết luận:
Tập trung sưu tra sự
di chuyển của sư đoàn 10 và sư đoàn 320 Bắc Việt. Hai sư đoàn này ở đâu thì ở
đó sẽ có đánh lớn. Sư đoàn 968 chuyên bảo vệ hậu cứ, ít kinh nghiệm sơn chiến
nên không đáng ngại, có thể dùng không quân ngăn chặn.
Khu vực Pleiku - Kon
Tum phải tăng cường bố phòng sục sạo từ xa để sớm phát hiện đối phương; nới rộng
tuyến phòng thủ ra ngoài để giảm sức tiến công của đối phương khi đánh sâu vào
các cụm phòng ngự trong thị xã.
Chấp thuận đề nghị của
đại tá Nghìn, tăng phái cho Quảng Đức trung đoàn 53.
Ban Mê Thuột (Buôn Ma
Thuột) có thể bị tấn kích nhưng chỉ là "diện", chưa cần tăng thêm lực
lượng.
Các tiểu khu, đơn vị
có và thực thi ngay kế hoạch giải toả các đường giao thông khi bị đối phương cắt
đứt.
Sáng ngày 2 tháng 3,
trưởng chi nhánh CIA tại Quân khu II Howard Arche từ Nha Trang bay lên Buôn Ma
Thuột và thông báo cho đại tá Nguyễn Trọng Luật tin tức tình báo về việc Quân
Giải phóng chuẩn bị tấn công Buôn Ma Thuột nhưng không thể tìm hiểu rõ hơn về lực
lượng của họ. Tướng Phú rút lại quyết định điều trung đoàn 53 lên Quảng Đức và
gửi nó đến Buôn Hồ, đồng thời lệnh rút trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn (Cẩm Ga) về
giữ Thanh An-Đồn Tằm. Ngoài những cuộc điều quân có tính chất địa phương kể
trên, binh lực Cộng hòa tại Tây Nguyên không có những thay đổi lớn trong thế bố
trí chiến lược và vẫn giữ nguyên phương án "phòng thủ diện địa" và
đây chính là điểm yếu khiến Quân lực Việt Nam Cộng hòa mất đi sức mạnh vốn có của
họ là tính cơ động do các phương tiện chuyển quân hiện đại (cơ giới và trực
thăng) mang lại. Do những phán đoán sai lầm từ cơ quan tình báo CIA tại Sài
Gòn về việc "cộng sản có ý định bao vây và cắt đứt các đường giao
thông" nên tại Buôn Ma Thuột, QLVNCH không có một phương án khả thi nào để
phòng thủ Buôn Ma Thuột trong trường hợp thị xã trở thành chiến trường trọng điểm.
DIỄN TIẾN
CHIẾN DỊCH
NGHI BÌNH, TẠO THẾ VÀ CÀI THẾ
Nghi binh
Giữa tháng 2, trong dịp
Tết Nguyên đán Ất Mão, một binh sĩ Quân Giải phóng đào ngũ đã khai với Phòng 2
(Bộ tham mưu Quân đoàn II) về việc Quân Giải phóng điều động sư đoàn 10 đánh Đức
Lập (căn cứ Núi Lửa), sư đoàn 320 đã đến Ea H'leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn (Cẩm
Ga), một lực lượng khác sẽ tấn công Buôn Ma Thuột. Nhưng đúng vào ngày diễn ra
cuộc họp các sĩ quân chỉ huy thuộc Quân khu II, một cuộc pháo kích lớn của Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam chụp xuống Pleiku nên tướng Phú lại cho rằng đây
là kế trá hàng lừa địch của đối phương. Mặc dù có lúc ông ta đã định điều Sư
đoàn 23 về Buôn Ma Thuột nhưng các chi nhánh CIA tại Quân khu II và phòng 2 Bộ
Tổng Tham mưu QLVNCH đều khẳng định sư đoàn 10 (QGP) và sư đoàn 320 (QGP) của đối
phương vẫn ở nguyên chỗ cũ.Trên bản đồ tình báo của Phủ đặc ủy tình báo VNCH, của
Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Sở chỉ huy Quân
đoàn II đều cho thấy một cụm quân rất lớn gồm 2 đến 3 sư đoàn có trang bị mạnh
của Quân Giải phóng đang chiếm lĩnh vị trí quanh Kon Tum và cả Pleiku cách đó
hơn 20 km.
Thực ra, các hoạt động
nghi binh của Quân Giải phóng đã bắt đầu từ tháng 12 năm 1974, khi trận Phước
Long chuẩn bị mở màn. Trung đoàn 7 công binh 559 mở thông đường 220 nối đường
14 ở Bắc Võ Định với đường 19 gần đềo Mang Yang sau khi vòng qua Đông Bắc thị
xã Kon Tum. Hai trận địa pháo binh 130 mm giả được triển khai phía Bắc Kon Tum
(thực ra chỉ có súng cối 120 mm). Một số xe tăng (cũ), xe xích kéo pháo, xe vận
tải được tổ chức cơ động liên tục suốt ngày đêm quanh phòng tuyến. Hai bến phà
(gỗ) được triển khai tại cầu Diên Bình và sông Đakbla. Sư đoàn 10 để lại một lực
lượng nhỏ liên tục dùng súng cối bắn phá thị xã Kon Tum và đào nhiều hầm hào
trong tuyến phòng ngự. Sư đoàn 320 cũng để lại một bộ phận lực lượng hoạt động ở
đường 19 phía Tây Pleiku, cùng súng cối bắn phá các căn cứ La Sơn, Thanh An, Đồn
Tằm. Trung đoàn 95 hoạt động mạnh ở đường 19 Đông, chặn đánh các đoàn xe quân sự
và tập kích một số chốt của QLVNCH. Trung đoàn đặc công 198 để lại 2 trung đội
tập kích kho xăng Pleiku. Khi lực lượng chủ lực của các sư đoàn 10, 320 và các
trung đoàn 40, 234, 273, 675 di chuyển về quanh Buôn Ma Thuột, hệ thống điện
đài của các đơn vị này vẫn giữ nguyên vị trí và liên tục phát đi các bức điện
giả, báo cáo giả, mệnh lệnh giả với tần suất ngày càng cao.
Trong khi các đơn vị
này di chuyển vào Đắc Lắc thì Sư đoàn 968 (thiếu) từ Lào về lần lượt thay thế
các đơn vị này và vẫn sử dụng hệ thống liên lạc vô tuyến điện đã có tại địa
bàn. Sở chỉ huy mặt trận Tây Nguyên cũng để lại và duy trì hoạt động của các bộ
máy điện đài 15W (loại dùng cho sở chỉ huy sư đoàn trở lên) tại K'Leng, bắc Võ
Định, điểm cao 518 bên đường 19 đông. Lực lượng an ninh giải phóng Pleiku và
Kon Tum còn cho người vào tìm người thân" trong khu vực do QLVNCH kiểm
soát, phao tin Quân giải phóng sắp đánh lớn và Kon Tum và Pleiku. Dân chúng
trong các vùng do Mặt trận kiểm soát ở các khu vực Đông, Bắc và Tây Pleiku -
Kon Tum làm nhiều cờ, hoa, biểu ngữ với nội dung chào mừng Pleiku và Kon Tum được
giải phóng.
Khi Trung đoàn 45 (sư
đoàn 23) Quân lực Việt Nam Cộng hòa tổ chức các cuộc hành quân lùng sục xung
quanh khu vực Buôn Ma Thuột, Thuần Mẫn và Đức Lập; Bộ tư lệnh mặt trận Tây
Nguyên đã lệnh cho các đơn vị của Sư đoàn 320A tạm lùi về phía Tây, tránh giao
chiến, không bộc lộ lực lượng. Hà Nội đã tung ra đơn vị dự trữ chiến thuật mạnh:
Sư đoàn 316, bố trí phía sau Sư đoàn 320A được lệnh không tiến hành bất kỳ hoạt
động quân sự nào.
Các hành động nghi
binh trên đây của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã dẫn đến những thông tin
trái ngược trong các báo cáo tình báo của CIA, Phủ đặc ủy tình báo, Bộ Tổng
tham mưu QLVNCH và Bộ tham mưu và cơ quan tình báo Quân đoàn II QLVNCH. Và nó dẫn
đến kết quả là ngày 18 tháng 2 năm 1975, Tư lệnh quân đoàn II, Thiếu tướng Phạm
Văn Phú đã có một quyết định sai lầm: giữ sư đoàn 23 (thiếu) ở lại khu vực Pleiku
- Kontum mặc dù chỉ trước đó một ngày, ông ta đã phê chuẩn kế hoạch chuyển sư
đoàn này về Buôn Ma Thuột. Cho đến cuối tháng 2, CIA tại Sài Gòn vẫn chưa biết
gì về việc tập trung quân của Quân Giải phóng tại đây và vẫn phán đoán rằng mục
tiêu tấn công chủ yếu vẫn là Pleiku và Kon Tum. Mãi đến 4 giờ sáng ngày 10/3,
khi xe tăng Quân Giải phóng đã tiến vào Buôn Ma Thuột, tướng Phú mới được cấp
dưới đánh thức và biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính, nhưng đã quá muộn.
Tạo thế và cài thế
Chiến dịch Tây Nguyên
chính thức bắt đầu đêm 3 rạng ngày 4 tháng 3 với trận đánh của Trung đoàn 95A
diệt căn cứ Ayun do 1 tiểu đoàn bảo an chiếm hữu và một số điểm chốt giao thông
nhỏ của QLVNCH trên 20 km đường 19 từ ngã ba Pleibon đến ấp Phú Yên (Tây An
Khê) ở. Cùng thời gian này, trung đoàn 9, sư đoàn 320A cắt đường 14 ở Ea H'Leo
(Bắc Cẩm Ga). Ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Sao Vàng (thiếu) của Quân khu 5 tấn
công và tràn ngập 11 chốt do 2 đại đội bảo an đóng giữ (có 300 quân VNCH bị
tiêu diệt [36], chiếm đoạn đường 19 từ đèo Thượng An đến cầu số 13 ở Đông An
Khê. Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 3 Trung đoàn 25 (QGP) tổ chức trận phục kích một
đoàn xe vận tải của QLVNCH tại Chư Cúc, cắt đứt đường số 21 ở tây Khánh Dương,
đông Buôn Ma Thuột.
Tướng Phú một mặt xin
viện binh để khôi phục tình hình trên đường 19 phía Đông Pleiku, mặt khác rút
trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn (căn cứ Cẩm Ga) lui về giữ đường 14 tại Thanh An,
phía Nam Pleiku. Bộ Tổng tham mưu QLVNCH chấp nhận tăng viện liên đoàn 4 biệt động
quân lên Pleiku bằng đường không. Tướng Phú lập tức điều động tăng phái đơn vị
này cho Thiết đoàn 2 do đại tá Nguyễn Văn Đồng chỉ huy đang trấn giữa phía Đông
Pleiku tổ chức tấn công nhổ các chốt của Trung đoàn 95A (QGP) trên đường 19
nhưng không thành công. Trung đoàn 53 do đại tá Vũ Thế Quang (phó tư lệnh sư
đoàn 23 chỉ huy) đang tăng phái cho Quảng Đức cũng được tướng Phú điều về Buôn
Ma Thuột phòng thủ thị xã. Đến ngày 8 tháng 3, Tây Nguyên đã bị cô lập với đồng
bằng ven biển miền Trung và Nam Trung bộ về đường bộ, trừ đường số 7 rất xấu đã
lâu không sử dụng. Thế trận ở Tây Nguyên đã được thiết lập.
Ngày 5 tháng 3, đại tá
Quang đích thân chỉ huy 1 tiểu đoàn của trung đoàn 53 cùng 14 xe hành quân vè
Buôn Ma Thuột thì bị trung đoàn 9, sư đoàn 320 phục kích tại Thuần Mẫn. 8 xe bị
bắn cháy, 2 pháo 105 mm bị đối phương chiếm được[40]. 7 xe còn lại phải quay về
Pleiku. Đại tá Quang phải trở về Buôn Ma Thuột bằng trực thăng. Ngày 7 và ngày
8 tháng 3, trung đoàn 48 (sư đoàn 320A QGP) với sự chi viện của 5 khẩu đội pháo
binh (2 pháo 105 mm, 3 pháo 85 mm) tấn công đánh chiếm Chư Sê và Thuần Mẫn (căn
cứ Cẩm Ga) loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn bảo an QLVNCH (có 121 người bị
bắt làm tù binh), cô lập Buôn Ma Thuột với Bắc Tây Nguyên. Tướng Phú điều liên
đoàn 21 biệt động quân từ Kon Tum đến Buôn Hồ bằng trực thăng vận và lệnh cho
đơn vị này phối hợp với trung đoàn 53 mở cuộc hành quân lấy lại căn cứ Cẩm Ga
trong ngày 9 tháng 3. Trong khi liên đoàn 21 và trung đoàn 53 không lấy lại được
Cẩm Ga thì đêm ngày 8 rạng ngày 9 tháng 3, sư đoàn 10 QGP (thiếu) tấn công cụm
cứ điểm Đức Lập (gồm căn cứ Núi Lửa và căn cứ liên đoàn 23 biệt động quân do 1
đại đội trinh sát, 1 chi đội xe tăng, 14 khẩu pháo, 1 tiểu đoàn và 2 đại đội bảo
an, 18 trung đội dân vệ, 1 trung đội cảng sát có quân số tổng cộng là 2400 chiếm
giữ[40]), chiếm giữ hoàn toàn các cứ điểm này vào ngày 10 tháng 3.
11 giờ trưa ngày 9
tháng 3, thiếu tướng Phạm Văn Phú từ Nha Trang bay lên sân bay Buôn Ma Thuột và
triệu tập cuộc họp với chuẩn tướng Lê Trung Tường, đại tá Vũ Thế Quang và đại
tá Nguyễn Trọng Luật để đánh giá tình hình. Theo tướng Phú: tình hình Đức Lập
quá xấu, không còn khả năng cứu vãn nên không tăng thêm viện binh, rút liên
đoàn 21 biệt động quân từ Buôn Hồ về bảo vệ phía Bắc thị xã; tiểu đoàn 2, trung
đoàn 53 phải cố giữ ngã ba Đắc Sắc, chờ thời cơ phản kích lấy lại Đức Lập; tăng
viện một chi đoàn thiết giáp cho thị xã và rút 2 tiểu đoàn bảo an ở Bản Đôn về
phòng thủ ngoại vi thị xã. Đại tá Vũ Thế Quang được bổ nhiệm làm tư lệnh các lực
lượng phòng thủ Buôn Ma Thuột. Cho đến lúc đó, tướng Phú vẫn một mực cho rằng:
Cộng sản đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Ma Thuột là để nghi binh và vài ngày tới,
họ sẽ tập trung tấn kích mạnh vào Pleiku - Kon Tum. 6 giờ chiều ngày 9 tháng 3,
tướng Phú về đến Pleiku và ra lệnh cấm trại 100%.
Ngay cả đến khi Buôn
Ma Thuột bị tấn công, tướng Phú và cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn II cũng chưa biết rằng
cuộc tấn công này được thực hiện chủ yếu bởi sư đoàn 316 đã bí mật hành quân xuống
Nam Tây Nguyên theo sau sư đoàn 320A, dùng sư đoàn 320A làm bình phong che giấu
sự có mặt của mình. Lợi dụng việc các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại Buôn Ma Thuột
tập trung giải tỏa đường 14 trên hướng Thuần Mẫn - Buôn Hồ, các trung đoàn công
binh 7 và 575 (QGP) đã mở thông các con đường 50B, 50C, 50D, 51, 57B, 57C bảo đảm
cho xe pháo các loại có thể kéo thẳng vào Buôn Ma Thuột. Riêng đường 20C ở Tây
Nam Buôn Ma Thuột nằm trên hướng đột kích của trung đoàn xe tăng 273 được mở một
cách độc đáo. Các cây lớn chỉ được cưa 3/4 gần gốc. Khi xe tăng xuất kích, có
thể húc đổ cây tự mở đường trong hành tiến. Vì vậy, trinh sát đường không của
QLVNCH không phát hiện được sự có mặt của trung đoàn xe tăng 273 tại đây. Việc
chỉ huy tác chiến được thực hiện hoàn toàn bằng thông tin hữu tuyến đã vô hiệu
hóa các hoạt động trinh sát điện đài của QLVNCH. Các đơn vị chủ lực của QLVNCH
tại Quân khu II đã bị căng kéo ra nhiều hướng và chôn chân tại các cứ điểm
phòng thủ, giảm thiểu khả năng cơ động ứng cứu cho nhau. Thế trận xung quanh
Buôn Ma Thuột đã được cài đặt.
WIKIDEDIA
Nhận xét
Đăng nhận xét