Bài 1 -NẾU MẤT HUẾ, CHÍNH PHỦ CỦA TỔNG THỐNG THIỆU ĐÃ SỤP ĐỔ NGAY TỪ NĂM 1972
Bài 1:
NẾU MẤT HUẾ, CHÍNH PHỦ
CỦA TỔNG THỐNG THIỆU
ĐÃ SỤP ĐỔ NGAY TỪ NĂM 1972
Thất bại ban đầu của
VNCH ở Quảng Trị năm 1972 khiến Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) nêu nhận
định rằng nếu Huế thất thủ, chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ sụp đổ
theo.
Nhận định của CIA và
của cả Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào tháng 5/1972, ba năm trước khi Sài Gòn sụp đổ,
về tình hình Nam Việt Nam không hề là bí mật cho ai.
Đánh giá này được đăng
tải rộng rãi ở Mỹ, như bài 'If Hue Falls, so May Thieu' trong bài gửi đi từ
Sài Gòn trên New York Daily News 08/05/1972.
Một báo cáo khác của
CIA ngày 07/06/1972 đánh giá chiến sự và vị thế chính trị của TT Thiệu cho thấy
bức tranh khá mong manh của VNCH.
Điểm nổi bật trong
đánh giá của CIA là sự tồn vong của chế độ mà Tổng thống Thiệu lãnh đạo nay
hoàn toàn dựa vào sức chiến đấu của quân đội.
Việc ông Thiệu hoàn
toàn kiểm soát giới tướng lĩnh, và các ý tưởng đảo chánh trong họ đã biến mất,
sau một giai đoạn đầy bất ổn 1963-67, cũng khiến ông Thiệu, dù sao đi nữa, vẫn
là nhân vật mạnh nhất.
Lý do là "đối
lập bên trong thì đã tan hàng (in obvious disarray), không còn năng lực tạo ra
thách thức gì nghiêm trọng cho sự kiểm soát của ông".
Tổng thống Thiệu thăm nghĩa trang
quân đội ở Thủ Đức - ảnh chụp năm 1973
"Các nhóm đối
lập không cộng sản thiếu thống nhất và lãnh đạo để trình bày ra một liên
minh hiệu quả cho phái chống ông Thiệu."
Thậm chí, các hành
động chính trị hiệu quả của lực lượng cộng sản chống lại chính phủ trung
ương "cũng yếu đi nhiều từ sau trận Tết Mậu Thân 1968".
Đặc biệt, CIA nhắc đến
phái Phật giáo Ấn Quang trong một mục riêng và nhận định rằng đây là nhóm
"biệt lệ trong khả năng chính trị rộng rãi của đối lập, vì tổ chức
tuyệt diệu của họ ở Trung phần VN".
"Tất nhiên, Phật
giáo Ấn Quang chưa bao giờ có đủ sức để lật đổ chính quyền Sài Gòn, nhưng có
khả năng tạo ra bất ổn dân sự nghiêm trọng như đã làm năm 1966..."
CIA khẳng định
"Phật giáo Ấn Quang chẳng ưa gì ông Thiệu (nguyên văn: have little love
for Thieu) nhưng đi đến kết luận là ông dễ chấp nhận được hơn một người bất
định như Tướng Kỳ hoặc vô hiệu quả như Tướng Minh, dù rằng các nhà sư địa
phương và Phật tử từng ủng hộ bất thành ứng viên tổng thống của ông
Minh".
Cho rằng chỗ dựa chính
trị của ông Thiệu trong xã hội miền Nam chẳng có gì vững chãi, nên ông dựa
vào các tướng tá, khả năng chiến đấu của họ, và dựa vào sự ủng hộ công khai của
Hoa Kỳ, CIA kết luận, "sự tồn vong về chính trị của ông Thiệu gắn liền với
viễn cảnh của Nam VN trên chiến trường".
Và chính đây là kết
luận cho rằng sau khi mất Quảng Trị, nếu Huế thất thủ, thì ông Thiệu sẽ sụp đổ.
CIA tin rằng Huế không
quan trọng về quân sự bằng Đà Nẵng, nhưng lại là biểu tượng lớn cho VNCH.
Về quân sự, CIA nhận
định chính xác rằng nếu đến mùa thu 1972, VNCH thành công trong các chiến dịch
phía Bắc thì vị thế của ông Thiệu sẽ mạnh hơn nhiều, và không đối thủ nội bộ
nào "đẩy ông đi được".
Trên thực tế, sau khi
mất Quảng Trị trong đợt tấn công vượt sông Bến Hải mà Bắc VN gọi là "Chiến
dịch Trị Thiên" từ tháng 3 đến tháng 5/1972, VNCH và tổng thống Thiệu đã
có những quyết định táo bạo.
Việc thay Chuẩn tướng
Vũ Văn Giai và Trung tướng Hoàng Xuân Lãm bằng Trung tướng Ngô Quang Trưởng để
làm tư lệnh Quân đoàn I - Quân khu I từ tháng 5, đã góp phần làm đảo ngược thế
cờ cho VNCH.
Cũng phải nói vào giai
đoạn này, Hoa Kỳ vẫn còn quyết tâm bảo vệ miền Nam và Hạm đội 7 đã hỗ trợ tối
đa về phi pháo và oanh kích bằng không quân, gồm cả B-52 cho Tướng Trưởng để
ông có thể giành lại Cổ thành Quảng Trị ngày 16/09.
Hai bên đều thiệt hại
rất nhiều sinh mạng nhưng VNCH còn tồn tại thêm được gần ba năm nữa.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng thị sát
quân lực bảo vệ Huế. Phía sau ông là thiếu tướng cố vấn Mỹ Frederick Kroesen.
Chừng 900 quân thuộc Sư đoàn 2 của VNCH được không vận tới căn cứ Rakkasan,
cách Huế 15 dặm về phía Tây để tạo 'vành đai thép' bảo vệ cố đô
Cũng trong thời gian diễn ra các trận đánh Mùa hè Đỏ lửa 1972, phía Mỹ
nhận định rằng việc yểm trợ bằng không quân và phi pháo của họ là yếu tố tối
quan trọng cho sức chiến đấu của quân lực VNCH.
Điều này đã không còn vào tháng 3/1975, như chính các báo cáo khác của
CIA vào thời gian đó ghi lại.
Trong cuộc gặp cuối cùng với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngày
2/04/1975, quan chức CIA, Ted Shackley ghi lại rằng ông Thiệu "tóc bạc đi
nhiều" (so với lần gặp cuối năm 1973), và trông ông "e dè, giảm
nhiệt huyết".
Trước đó hơn một tuần, tối 25/03/1975, quân đội miền Bắc đã chiếm trọn
Huế và tiếp tục tấn công để làm chủ toàn bộ Quân khu I.
Đúng như nhận định hồi 1972 của CIA, Huế thất thủ là sự nghiệp của
ông Thiệu khó đứng vững.
Vào thời điểm hai bên nói chuyện, ông Shackley cho Tổng thống Thiệu
hay quân đội Bắc Việt đã xuất hiện ở cấp sư đoàn tại 17 điểm trên toàn lãnh
thổ VNCH.
Hoa Kỳ vẫn cố gắng thuyết phục ông Thiệu cải tổ chính phủ để tạo ra
bộ mặt đoàn kết quốc gia, điều ông chưa hề thực sự muốn làm, và đã không làm.
Chính vì thiếu một chính phủ ít nhiều có tính dân chủ đại diện hơn, sự
ủng hộ của dư luận Hoa Kỳ với ông Thiệu và VNCH ngày càng giảm, đến chỗ
không còn gì.
Ngày 10/04, để cứu vãn tình thế phút chót, Tổng thống Gerald Ford xin
Quốc hội 722 triệu USD viện trợ quân sự cho VNCH, cùng 220 triệu viện trợ
kinh tế.
Cuộc thảo luận không đi đến đâu và chấm dứt ngày 17/04.
Sang ngày 21/04, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình tuyên bố
từ chức.
Ngày 30/04/1975, lực lượng cộng sản tiến vào thủ đô của miền Nam.
Tháng 3/1975: tàu hải quân HQ504 chở
7000 người từ Huế và Đà Nẵng chạy loạn vào Nam
BBC
Nhận xét
Đăng nhận xét