Bài 5 -LỆNH RÚT KHỎI HUẾ CỦA TỔNG THỐNG THIỆU
Bài 5
LỆNH RÚT KHỎI HUẾ
CỦA TỔNG THỐNG THIỆU
Đại nội Huế
Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được
quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng
thành của Huyền Trân Công chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí
cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ.
Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai
châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi tắt là Thuận Hóa. Chữ 'Hóa' dần dần đọc trại đi thành "Huế."
Câu chuyện lãng mạn ấy
đi đôi với cái phong cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất này. Lăng tẩm, Thành
nội, Thành ngoại, đầm sen tỏa hương thơm ngát. Rồi những buổi chiều tím, những
đêm trăng mờ, những con đò nho nhỏ.
Nếu ta dừng lại ở vài
bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên dòng Sông
Hương thì sẽ thấy lòng mình lắng xuống, rồi như bị cuốn vào với tiếng chuông
chùa, ngân vang vào không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông Hương?
Cái cảnh nửa đi nửa ở
không phải chỉ ám ảnh người lữ khách khi phải lìa xa nơi Cố đô, nhưng nó còn
làm cho các nhà quân sự trăn trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh Kỳ vào
cuối tháng Ba năm ấy. Lúc thì cố thủ, lúc thì rút quân, rút xong lại muốn quay
về giữ Huế, cứ dùng dằng mãi.
Quyết định rút khỏi Huế
Trong một báo cáo tối mật
của Tướng Fred Weyand gửi Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm chiến
trường Miền Nam vào cuối tháng Ba 1975, ông nói tới hậu quả bi đát của việc cúp
hết viện trợ làm tê liệt khả năng chiến đấu của Việt Nam Cộng hòa.
Về cuộc họp tại Dinh Độc
Lập trước khi bỏ Huế (13/3), ông bình luận:
"Trong mười hai
ngày tiếp theo sau buổi họp này (từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao
(critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sài Gòn về việc nên giữ lại những
phần nào ở Quân đoàn I, nhất là về việc có nên hay không nên giữ Huế."
"- Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được Huế
không?"
Tổng thống Thiệu hỏi
Tướng Ngô Quang Trưởng qua điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng Ba 1975.
Một cuộc họp tại Dinh
Độc Lập dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Thiệu lúc 9 giờ 30 sáng. Hiện diện:
ngoài Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm còn có:
Về phía quân sự: Đại
tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Trung tướng Đồng Văn Khuyên.
Về phía dân sự: Ngoại
trưởng Vương Văn Bắc, Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Khi mọi người đã đến
đông đủ, một bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ phòng họp. Những điểm mầu đỏ
đánh dấu vị trí đồn trú của quân đội Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên tường đã
mọc lên như nấm. Cuộc duyệt xét tình hình quân sự bắt đầu.
Sau khi Tướng Khuyên
trình bày về tình hình QK I và II, Tổng thống Thiệu nhấc máy điện thoại gọi Tướng
Trưởng hỏi xem có giữ được Huế hay không. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu
giây bên kia:
Trung tướng Trưởng: "Nếu có lệnh, thì giữ."
Tổng thống Thiệu: "Liệu giữ được bao lâu?"
Trung tướng Trưởng: "Ngày một ngày hai."
Tổng thống Thiệu: "Vậy nếu không giữ được, phải quyết định
ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ."
Vì những biến cố về Huế
còn đặt ra nhiều nghi vấn nên chúng tôi đã ghi lại thật rõ trong cuốn sách Tâm
Tư Tổng Thống Thiệu về những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có liên hệ tới Quân đoàn
I vào tháng 3/1975, cùng với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung tướng Trưởng.
Thêm vào đó là tường thuật của Đại tướng Viên và những tài liệu của Hoa Kỳ (xem
Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 3).
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong
chuyến công du tới Anh, 10/4/1973
Cuộc họp tại Dinh Độc Lập ngày 19
tháng 3
Trong bối cảnh ấy thì
sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng bay vào Sài Gòn để trình bày kế hoạch rút lui lên
Tổng thống, lần này có sự hiện diện của cả Phó Tổng thống Nguyễn Văn Hương.
Sự hiện diện của cụ
Hương là việc bất thường, vì xưa nay khi bàn chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ
mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc đó, ông phải nhờ đến sự ủng
hộ của Phó Tổng thống để thuyết phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế.
Theo Đại Tướng Viên
thuật lại trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH (trang 162-163):
"Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai
giải pháp:
Kế hoạch thứ nhất: nếu Quốc lộ 1 (QL 1) còn sử
dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng;
Kế hoạch thứ hai: nếu QL 1 bị cắt, các lực lượng
sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là
hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng
sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ đảm
nhận.
Vì lúc ấy "không thể rút quân theo kế hoạch
thứ nhất được vì đoạn đường Huế-Đà Nẵng, Chu Lai-Đà Nẵng đã bị chốt, làn sóng tỵ
nạn lại đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để chạy về Đà Nẵng, nên Tướng
Trưởng kết luận: 'Chúng ta chỉ có một chọn lựa, và chúng ta phải thi hành ngay
trước khi quá trễ.'
Chọn lựa của tướng Trưởng là rút quân về Huế,
Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay
địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống
cự."
Trong cuộc họp ngày
19/3, Tổng thống Thiệu kể lại là ông đã miễn cưỡng chấp thuận kế hoạch thứ hai
của ông Trưởng vì ông Trưởng nói không còn đường nào tháo lui khỏi Huế được nữa
vì QL 1 đã bị chặn: "Tôi nói với Tướng Trưởng là mặc dầu lịch sử có thể
phán xét tôi như một thằng ngu (imbécile) nhưng vì lòng tôi đối với đất nước,
tôi đồng ý." Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra khỏi Dinh Độc Lập và nói:
"Tôi đợi đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài
phát thanh."
Tổng thống Thiệu thêm:
khi về tới Đà Nẵng thì "Ông Trưởng gọi điện thoại để yêu cầu tôi hãy hoãn
lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên đài phát thanh, vì có thể ta không giữ nổi Huế."
Tôi hỏi tại sao Tướng Trưởng lại thay đổi?
Tổng thống Thiệu trả lời:
"Lý do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm Quang)
Thi, Tư lệnh phó QĐ I báo cáo là quân đội Bắc Việt đã bắt đầu pháo vào Bộ chỉ
huy rồi."
Việc Tướng Thi báo cáo
Bộ tư lệnh của ông đã bị pháo thì Đại tướng Viên cũng xác nhận trong cuốn hồi
ký của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng việc Tướng Trưởng xin hoãn tuyên bố cố
thủ Huế trên đài phát thanh thì chưa thấy ai nói tới.
Cũng theo lời Tổng thống
Thiệu, vì ông đã miễn cưỡng đồng ý với Tướng Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ
lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói
thêm về việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng biết là cả Phó Tổng thống, cả Thủ
tướng đều chống lại việc giữ cả hai nơi - Huế và Đà Nẵng- cùng một lúc.
Nhưng mặc dù Tổng thống
Thiệu tỏ ý dè dặt, Tướng Trưởng vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa Huế, Chu
Lai và Đà Nẵng, vì Quốc Lộ 1 đã bị chận rồi, không thể rút được nữa, vả lại ông
cho rằng Tổng thống tuy dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó.
Vào thời điểm này thì
Đài BBC luôn loan báo đầy đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và tiên đoán
là quân đội Bắc Việt sẽ tới vùng phụ cận Sàigòn trong vòng vài ba tuần lễ vì Quốc
lộ 14 từ Ban Mê Thuột đã mở rộng. Đài VOA thì tường thuật về vụ nhóm Dân chủ ở
Hạ viện đã bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho Miền Nam (ngày 12 tháng Ba) với số
phiếu 189-49; rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với số phiếu 34-6.
Binh sĩ nghe liên tục
như vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền Trung, đơn xin tiếp liệu về thực
phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đình binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp
bay về Sàigòn, nhưng chính phủ trung ương đã hầu như cạn kiệt.
Năm ngày trăn trở về Huế
Ngày 23 tháng Ba 1975,
theo Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn trong hồi ký Đất Nước Tôi: "Tướng Trưởng họp bộ tham mưu tại Đà Nẵng, ra chỉ thị cho Tướng
Thi tử thủ Huế nhưng đồng thời phải có kế hoạch để sẵn sàng di tản về Đà Nẵng nếu
tình thế đòi hỏi. Đến đây ai cũng nhận thấy tình hình cố đô Huế rất nguy kịch,
nếu không nói là tuyệt vọng." Sau đó, sáng ngày 24 tháng Ba, Tướng Thi và
Bộ Tư lệnh tiền phương đáp tầu Hải quân đi Đà Nẵng…"
Ngày 25 tháng Ba, theo
Đại tướng Viên:
"Tất cả các đơn vị của Quân đoàn I tụ lại
tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể cả Hội An) và Bắc thành phố
Huế… Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này
đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong cảnh tuyệt vọng như vầy… Trong
tình thế thất vọng đó, Quân đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ Dinh Độc lập: Tổng
thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của quân đoàn để phòng
thủ Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC được đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng ra lệnh cho
Sư đoàn 1BB và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng…"
"Kế hoạch di tản
lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các đơn vị cơ hữu của
sư đoàn rút ra Cửa Tư Hiền…" (sđd., 171).
Lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975
Như viện dẫn ở đầu
bài, trong buổi họp ngày 25 tháng Ba, sau khi Tổng thống Thiệu hỏi Tướng Trưởng
"nếu ông quyết định giữ Huế thì được bao lâu," ông Trưởng trả lời là
chỉ giữ được "ngày một ngày hai," ông Thiệu lập lại cho mọi người
nghe, rồi ra lệnh: "Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu
quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ."
Tới đây ông Thiệu
không nhắc lại thêm các câu trả lời sau đó của ông Trưởng nữa. Ông đặt ống nói
xuống, và nói: "Ông Trưởng rất depressed" (chán nản). Sau khi tham khảo
với Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện cho Tướng
Trưởng, đưa ra ba lệnh (và tôi ghi rất rõ ràng xuống cuốn sổ tay còn giữ được):
"Thứ nhất, bỏ Huế;
"Thứ hai, phải làm cho lẹ; và
"Thứ ba, tử thủ Đà Nẵng."
Tổng thống Thiệu thở
dài: "Mình trông cậy vào ba 'enclaves' (cứ điểm), mà bây giờ chỉ còn một ở
Đà Nẵng." Nghe vậy, ông Bắc và tôi bàng hoàng nhìn nhau. Như vậy là đã có
lệnh chính thức bỏ Huế.
Trong cuốn 'Decent
Interval,' tác giả Frank Snepp viết về lòng thương của Tướng Trưởng đối với binh
sĩ và hậu quả như sau:
"Đang khi Tướng Trưởng trình bày với Tổng
thống Thiệu về kế hoạch của ông thì số quân đội mà ông cần để thi hành này lại
đang tan rã (disintegrating). Và đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to
blame). Mấy ngày trước đó ông đã cho phép quân nhân của SĐ I được phép lo cho
an toàn của gia đình họ. Ông đã làm như vậy là vì lòng thương của một tư lệnh đối
với binh sĩ, nhưng khi Quốc Lộ I đã bị chận rồi thì chỉ thị này đã dẫn tới hỗn
loạn, vì sĩ quan cũng như quân nhân đã bỏ đồn từng loạt để lo cho thân nhân tìm
lối thoát."
Số phận quân nhân
Nơi đây, tôi mở ngoặc
để nhắc lại về tình trạng kinh tế khó khăn của thân nhân người binh sĩ trước
khi sụp đổ. Từ mùa hè 1974, sau khi giá xăng dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách
không còn đủ khả năng tăng lương cho quân đội để đáp ứng với lạm phát vì viện
trợ đã bị cắt gần hết.
Chính phủ chỉ định cho
mỗi bộ nhận một sư đoàn để tìm cách giúp đỡ. Sư đoàn 1 được giao cho Bộ Kế hoạch.
Trong một chuyến đi Huế
thăm sư đoàn này, chúng tôi được Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm đưa đi thăm hỏi
gia đình binh sĩ.
Các binh sỹ Việt Nam Cộng hòa bị
áp giải trên đường phố Sài Gòn sau khi quân miền Bắc chiếm được thành phố, đánh
dấu sự kết thúc cuộc chiến
Ông tâm sự rằng để cho
thân nhân sống trong các lều, bạt ngay sát trại như thế này thì thật là nguy hiểm
khi bị pháo kích và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân, nhưng phải chấp nhận
vì với số lương quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung với gia đình.
Thật vậy, với 20.000 đồng
một tháng (mãi lực bằng khoảng $28 đô la), người quân nhân chỉ có thể mua gạo,
nước mắm cho gia đình, còn lại rất ít cho những nhu cầu khác như thuốc men, may
mặc, giáo dục con cái, giải trí.
Ngày 26 tháng Ba, 1975
một buổi họp tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ sáng. Có mặt tại buổi họp
gồm Tổng thống Thiệu, Ngoại trưởng Bắc và chúng tôi.
Cuộc họp này là để bàn
về việc tìm cách để cấp tốc khai thác hai bức thư của Chủ tịch Thượng viện Trần
Văn Lắm và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn viết cho hai Chủ tịch Lưỡng viện Quốc
hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25 tháng Ba). Giữa cuộc họp thì Tổng thống Thiệu lại
nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng Trưởng về Huế:
Tổng thống Thiệu: "Anh Trưởng hả? Tình hình Huế thế nào?'
Tướng Trưởng (theo như
lời ông Thiệu nhắc lại trong phòng họp): "Đang
bị đánh vài trận."
Cùng ngày bỏ Huế, Tổng
thống Thiệu chỉ thị cho tôi trình ông bản thảo chót về bức thư cầu cứu Tổng thống
Ford.
Mở đầu có câu: "Thưa Tổng thống, lúc lá thư này tới
tay Ngài, thành phố Huế có lẽ đã bị bỏ ngỏ, và rất có thể chính Sàigòn cũng bị
đe dọa."
Ông Thiệu gạch ngay
câu mở đầu đi vì Huế đã bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu thư chúng tôi đề "Saigon, March…, 1975" để trống
con số về ngày gửi, vì chưa biết ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông lấy bút
chì xanh viết xuống số "25" thật to, tức là "Saigon, March 25,
1975".
Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt
buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo tôi đưa bản văn cho Chánh văn phòng tổng thống
là Đại tá Cầm để cho đánh máy và chuyển cho Đại sứ Graham Martin ngay.
Gửi thư đi rồi, Tổng
thống Thiệu chờ đợi từng giây phút về phản ứng của Tổng thống Ford.
Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford, Ngoại
trưởng Henry Kissinger và Phó tổng thống Nelson Rockefeller hôm 28/4/1975 đã thảo
luận tại Tòa Bạch Ốc về kế hoạch di tản khỏi Sài Gòn
Nhưng nhận được thư
SOS, Tổng thống Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên nhậm chức tổng thống
thay Nixon vào mùa hè 1974 ông đã viết cho ông Thiệu ngay ngày làm việc đầu
tiên tại Tòa Bạch Ốc:
"Những cam kết mà
nước Mỹ đã hứa hẹn với Việt Nam Cộng hòa trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ
được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi" (thư ngày 10 tháng 8,
1974, xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196).
Tổng thống Ford chỉ
làm một nghĩa cử để biểu diễn. Trong cuốn hồi ký A Time to Heal (1979) ông viết
lại:
"Chiều ngày 25 tháng Ba (ngày 26 giờ Sài
Gòn), tôi họp với các ông Kissinger, Scowcroft, Martin và Tướng Weyand, Tham
mưu trưởng Lục quân. Mọi người đều biết là tình hình Miền Nam rất trầm trọng,
nhưng chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi yêu cầu ông Weyand bay sang
Sài Gòn sớm nhất có thể, ở đó một tuần rồi mang về một báo cáo đầy đủ."
Nói rằng "Chẳng
ai biết nó nguy kịch như thế nào" thì đúng là nói dối.
Ông đã nhận được thư
SOS của Tổng thống Thiệu và của lưỡng viện Việt Nam Cộng hòa, lại được nghe Đại
sứ Graham Martin từ Sài Gòn về báo cáo. Sau này Đại sứ Martin còn nói lại với
chúng tôi là sau khi ông họp nhiều lần với Tổng thống Thiệu, cũng như đã có đầy
đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám đốc CIA ở Sài Gòn) cung cấp, ông đã
báo cáo rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như vậy là trong hồi ký,
trước sự đã rồi, Tổng thống Ford chỉ biện luận cho hành vi phản bội của mình.
Hồn khí linh thiêng nơi cố đô
Vừa rút khỏi Huế buổi
sáng thì bưổi chiều lại một tin sét đánh, hy vọng cuối cùng của Việt Nam Cộng
hòa để có chút tiền sống cầm hơi đã bị tan biến.
Vào cuối năm 1974, một
tia sáng loé lên. Có ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu cố đến Miền Nam. Vua
Saud al Faisal cho biết ông có rất nhiều thiện cảm với nhân dân Miền Nam và đã
bí mật đồng ý cho Miền Nam vay một số tiền để mua tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh
Tháo Chạy, trang 474).
Thật là một cơ hội quý
báu. Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến cứu. Vua Faisal bằng lòng cho
vay dài hạn $300 triệu (để bù đắp cho số tiền vừa bị Quốc hội Mỹ vét nạo hết).
Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện
ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những
hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu
quá khan hiếm những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn.
Nhưng đúng là "hoạ
vô đơn chí." Những cái rủi ro nó hay theo nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi
sửa soạn để cùng với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm phán,
mong sớm có giải ngân, thì đùng một cái, vua Faisal bị chính cháu ruột mình sát
hại một cách thảm thương ngay trong hoàng cung.
Chính phủ Miền Nam
bàng hoàng. Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia buồn cùng Hoàng gia, nói tới
nghĩa cử cao đẹp của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài về nơi cực lạc.
Vì tình cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng hòa yêu cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện
công cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đã vạch ra.
Thế nhưng, trong lúc
tang gia bối rối, tình hình quốc nội xáo trộn, Hoàng gia Saudi đâu còn thời giờ
hay tinh thần mà để ý đến chuyện của nước khác.
Đứng về khía cạnh tâm
linh, tôi tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông
vua xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng đã đến lúc vận nước suy tàn?
Tiến sỹ NGUYỄN TIẾN HƯNG
[Virginia, Hoa Kỳ]
-----------------------
Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng
trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng
minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).
Nhận xét
Đăng nhận xét