THƠ và NHÀ THƠ - Nguyễn Hưng Quốc
THƠ và NHÀ THƠ
Nhà thơ? Tôi nghĩ đến những người chuyền lửa và những
kẻ trồng hoa. Lửa để giữ gìn sự sống. Hoa để làm cho cuộc sống trở thành dịu
dàng và có ý nghĩa. Nhà thơ chuyền lửa là người đứng giữa đại lộ, dẫn đầu đám
đông, dựng lên những con đường lửa cao ngất trời. Nhà thơ trồng hoa, khiêm tốn
hơn, họ thường ngồi bên vệ đường, cặm cụi và lặng lẽ làm việc. Đường phố có xôn
xao, có tấp nập, có dập dìu tài tử giai nhân, có ngựa xe như nước, áo quần như
nêm thì cũng mặc. Họ cứ âm thầm vun xới từng gốc cây, tỉa tót từng chiếc lá,
thúc giục cái vô tri nở nụ nhiệm mầu, thúc giục cái vô ngôn cất lên lời ca
thiên thâu như Quách Thoại nói, để làm dịu bớt cái oi ả của mặt trời, để
làm thắm lại cái khô cằn của mặt đất và để cho những người vốn gù lưng bẩm sinh
đang lầm lũi bước đi với cái bóng chênh chếch của mình giữa lòng đường kia có
thể thấy được, rất vừa tầm, sự kết tinh của hương và sắc.
Không nên đánh giá cao người này hơn người khác và
cũng không nên phủ nhận người này để đề cao người kia. Trong một giàn nhạc vừa
có dương cầm dịu dàng, vĩ cầm réo rắt lại vừa có cả tiếng trống inh ỏi. Trong
ngôn ngữ vừa có vần bằng lại vừa có vần trắc. Thơ là lửa. Nhưng thơ cũng còn là
phảng phất hương. Hai nhà thơ được coi là lớn nhất trong nền văn học cổ điển
Việt Nam, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du, một người chuyền lửa và một người
trồng hoa. Ngay trong thơ Nguyễn Trãi, chất hoa vẫn khá nhiều. Nhà thơ viết nên
những câu dữ dội:
Đánh
một trận, sạch không kình ngạc
Đánh
hai trận, tan tác chim muông
Nổi
gió to quét sạch lá khô
Thông
tổ kiến phá toang đê vỡ...
cũng lại là người làm thơ tình đầu tiên trong lịch sử
văn học viết Việt Nam:
Loàn
đơn ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm
ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài
ấy dù còn áo lẻ
Cả
lòng mượn đắp lấy hơi cùng.
Ai nỡ vì áng thiên cổ hùng văn kia mà hờ hững với
những bài thơ trữ tình ngan ngát hương hoa nọ? Lịch sử công bằng: cái con người
rất ư thiếu lửa có cái tên Nguyễn Du vẫn cứ sống mãi, lấp lánh mãi trong
lòng mọi người với một nhành hoa đẫm đầy nước mắt: Kiều.
Nghĩ cho cùng, những người trồng hoa đã giúp cho những
người chuyền lửa thành công: nếu con người không nhận biết và không yêu mến cái
đẹp, họ cũng chẳng thiết tha gì mà bảo vệ sự sống. Phải không?
Thế nhưng người đời vẫn luôn luôn vô tâm. Ít ai nhớ
mình mắc nợ những người trồng hoa nhiều lắm. Mỗi nhịp thở bất thường, mỗi nhịp
tim đập bất thường của họ, một cách trực tiếp hay gián tiếp, đều đến từ những
người trồng hoa kia. Đâu phải tự nhiên mà người ta có thể thấy được trong tà áo
phơ phất của người mình yêu có hai phần có gió thổi, một phần mây, trong ánh
mắt người mình yêu có một dòng sông, trong làn môi ươn ướt mọng của người mình
yêu có vài chút trăng, trong nét mi người yêu có cái gì vừa thanh tao vừa sắc
sảo của một lá liễu.
Tôi ngờ là trước khi có nhà thơ, nhìn khói sóng trên
sông chiều hiu quạnh, chưa chắc loài người đã tự dưng nhớ đến cố hương; nghĩ
đến cái du du của trời đất, chưa chắc có ai đã độc sảng nhiên nhi thế hạ. Tôi
không muốn cường điệu, nhưng tôi tin là, nhân loại chỉ thực sự có tâm hồn từ
khi nhân loại bắt đầu xuất hiện những nhà thơ, nghĩa là những người trồng hoa.
Rừng núi thác ngôn tâm sự của mình vào tiếng suối. Mặt
trời thác ngôn tâm sự của mình vào tiếng chim. Loài người thác ngôn tâm sự của
mình vào những bài thơ. Cả rừng núi, cả mặt trời, cả loài người đều ít khi nhớ
và nhận sự thật hiển nhiên ấy. Rừng núi vẫn luôn luôn khua động lá cây để át
lời thầm thì của suối. Mặt trời vẫn luôn luôn nung thêm độ nóng để làm nghẹn
lời chim ca. Và loài người vẫn luôn luôn gia tăng cường độ những tạp âm để làm
chìm xuống những tiếng nói trong trẻo, nên thơ nhất của con người. Cho nên dù
nhà thơ có lý sự:
...Nhưng
nếu chẳng thơ Đường
Nếu
không màu tranh Tống
Không
huyền ảo chiêm bao
Chắc
gì trong cuộc sống
Liễu
đã mang thơ vào
Chắc
gì mắt em như lá liễu
Đã
cắt lòng anh một nét dao.
(Tế
Hanh)
thì thế giới của nhà thơ vẫn mãi mãi là thế giới của
những người trồng hoa bên vệ đường. Bên này hay bên kia vệ dường. Không bao giờ
là giữa. Hình như không có ai viết nhiều và viết hay về số phận bên vệ đường
của các nhà thơ cho bằng Trần Huyền Trân:
Bóng
đơn đi giữa kinh thành
Nhìn
duyên thiên hạ nghe tình người ta.
Một bức tranh buồn: không những có sự cô đơn mà còn có
cả một dáng dấp lủi thủi. Không những có một dáng dấp lủi thủi mà còn có một
tâm trạng bẽ bàng và xót xa. Tất cả những gì ngọt ngào và ấm áp nhất, với nhà
thơ, đều là xa lắc, họ chỉ được "nhìn", được "nghe", mà
không bao giờ được sống cùng, được chia sẻ với. Có lúc Trần Huyền
Trân hình dung cái khung cảnh "vệ đường" ấy như một cái quan tài
chật và tối:
Đâu
đó lâu đài bỏ nhện giăng
Mà
đây buồng xép hẹp như săng
Giường
ken chiếu nối xoay ngang dọc
Xương
gối vào xương chẳng đủ nằm.
Ở đó, từng ngày từng ngày là một mòn mỏi, một phôi
pha:
Sớm
đón nước sông, chiều gạo chợ
Giãi
lòng cho bụi gột mùi hương.
Bên cạnh sự khốn quẫn, đau đớn hơn, còn có sự bế tắc:
Lũ
ta kẻ sĩ nằm trong đạo
Nhân
nghĩa kê đầu nghe gió mưa
Xót
cội đời nghèo hương chẳng đậu
Mỏi
mòn chính khí lạc loài thơ.
Thâm Tâm, người bạn thân nhất của Trần Huyền
Trân có lúc le lói hy vọng:
Rằng:
đương gió bụi thì tơi tả
Thiên
hạ phải dùng thơ chúng ta.
Nhưng
rồi hy vọng vụt tắt ngay:
Thơ
ngâm dở giọng, thời chưa thuận
Tan
tiệc quần anh, người nuốt giận
Chim
nhạn chim hồng rét mướt bay
Vuốt
cọp, chân voi còn lận đận.
Cũng bình thường thôi, ông Thâm Tâm ạ. Lẽ nào ông
lại không nhớ đến Nguyễn Du, tài hoa ngàn lần hơn ông. Nguyễn Du cao ngất đại
thụ giữa rừng thi ca bạt ngàn của dân tộc, Nguyễn Du kết tinh muối mặn cả đại
dương mênh mông đau khổ của nhân loại, Nguyễn Du kẻ sáng thế Truyện Kiều,
cái ông Nguyễn Du ấy có lúc đã từng cay đắng nghĩ:
Nhất
sinh từ phú tri vô ích
Mãn
giá cầm thi đồ tự ngu.
(Một đời chuyên về từ phú biết là vô ích,
Sách, đàn đầy giá chỉ tự mình làm ngu mình)
Rồi Cao Bá Quát nữa. Cao Bá Quát, người đã từng
chê bọn "tao nhân mặc khách" vương giả ở kinh đô hồi ấy là... thối
hinh mùi nước mắm, kẻ được người thời đánh giá thế đứng uy nghi chẳng kém gì những
tên tuổi kiệt hiệt nhất đời Hán, đời Đường bên Trung Hoa, người được coi là
"thánh", "thánh Quát", cũng từng có nỗi băn khoăn rất mực
ngậm ngùi:
Thử
thân hà sự tác thi ông?
(Tại sao có lúc mình là nhà thơ nhỉ?)
Nhà thơ, nhớ lại coi, có mấy khi không lận đận? Cái
câu nói Thiên hạ phải dùng thơ chúng ta đúng là một ảo tưởng khờ khạo. Người
đời, từ xưa đến nay, bao giờ cũng thích phèng la chập choã hơn thơ ca. Ngay Đào
Tiềm, nhà thơ kiệt xuất thời Lục Triều bên Trung Hoa mà còn khốn khó đến nỗi có
lúc phải làm thơ gửi bạn để xin ăn (Nguyễn Khuyến rất thấm thía kinh
nghiệm này: Cổ nhân khất thực dĩ thành thi.) Cùng thế hệ với Trần Huyền
Trân và Thâm Tâm có Bích Khê, người từng tự hào:
Văn
chương quán thế nào ai biết
Trong
mộng mình về thưởng với tôi.
Một hôm cao hứng, Bích Khê làm bài hát nói để rao
bán thơ:
Hôm
xưa tớ đã bán sầu
Món
hàng khá đắc, khách cầu khách mua
Còn
món thi vẫn của chua
Khách
nào có thích, tớ cũng đùa làm quen
Sầu
đã bán thời thơ cùng bán nốt
Mối
thi sầu không cột lại làm chi...
Ít lâu sau, trên báo Tiếng Dân, có người đáp lại Bích
Khê:
Nực
cười cho bác Bích Khê
Bán
sầu bị ế trở về bán thi
Tưởng
rằng bác bán hàng chi
Hàng
thơ đây tớ hiếm gì mà mua...
Người ta thường kể, Lê Ngô Cát, sau khi soạn xong
quyển Đại Nam quốc sử diễn ca liền dâng cho Tự Đức xem. Không biết Tự Đức
khen và thưởng thế nào mà ông thuật lại với bạn bè bằng hai câu thơ:
Vua
khen thằng Cát có tài
Ban
cho cái khố với hai đồng tiền.
Rất Tú Xương, hai câu thơ ấy. Nghe như khục khặc cười
mà thật ra là đau đến điếng cả lòng. Có được khen thì cũng vẫn là
"thằng", một đứa đóng đô ở những vệ đường, ở ngoài lề mọi sự giàu
sang và hạnh phúc của nhân loại. Chả trách gì Nguyễn Vỹ phẫn quá phải văng
ra tiếng chửi thề:
Mẹ
cha cái kiếp làm thi sĩ
Chơi
nước cờ cao gặp vận bĩ.
Chả trách gì Xuân Diệu phải rụt vai lại và cúi
gầm mặt xuống:
Giữa
đời, anh rán giấu tên đi
Thi
sĩ, thưa cô có quý gì!
Dù vậy, mặc dù vậy, những nhà thơ chân chính vẫn cứ
yêu thơ:
Tôi
là gã đi đường đêm giá lạnh
Không
mong gì hơn kêu gọi lòng thơ.
(Hàn Mặc Tử)
Vẫn
thèm thuồng được làm thơ:
Ngả
mình trên bóng nhung tơ
Tôi
nguyền: sau lớn làm thơ suốt đời.
(Hồ Dzếnh)
Hàn Mặc Tử xem cái "vệ đường" của mình
là một thế giới tuyệt vời:
Quê
hương thơ đằm thắm biết dường nao
Đây
là vườn nên hoa lá xôn xao.
Trong
thế giới ấy, nhà thơ là hoàng tử:
Ta
trở nên như ngọc đàng kim mã
Rất
hào hoa, rất phong vận: Người Thơ.
Ở đó, nhà thơ được nghe thủ thỉ bên tai những lời tỏ
tình ngọt ngào:
Em
mê quá thi nhân Hàn Mặc Tử
Những cơn bệnh hiểm nghèo, những số phận tàn khốc,
những sự thật phũ phàng thịt da tôi sượng sần và tê điếng / tôi đau vì rùng rợn
đến vô biên tưởng như biến mất. Chỉ còn mộng:
A
ha! Ta vốn người trong mộng
Hư
thực như là một ý thơ.
Lưu Trọng Lư cũng có hai câu tương tự:
Thơ
ta cũng giống tình nàng vậy
Mộng,
mộng mà thôi, mộng hão hờ.
Đừng ai vội chê thi sĩ cứ mãi đắm đuối trong mộng.
Không có mộng, cuộc đời này sẽ ra sao? Yêu trăng, hãy nhớ ơn những làn sương
khói bềnh bồng chung quanh ánh trăng: chính chúng làm cho ánh trăng trở thành
mơ màng, hư ảo và trở thành kho tàng chất chứa bao nhiêu là mộng ảo. Yêu tịch
dương vô hạn hảo như Lý Thương Ẩn, hãy nhớ ơn những làn mây lang thang cô quạnh
ở chân trời: chính chúng làm cho hoàng hôn trở thành rực rỡ, lấp lánh màu sắc.
Có người ngại nhà thơ mãi đắm đuối trong mộng sẽ quên
mất cái thực trần trụi của cuộc đời. Thật chăng? Thật, với những giấc mộng con.
Phạm Đình Hổ, tác giả Mai đình mộng ký viết một câu cực hay: "Chỉ có
người đại giác mới đại mộng."
Mộng là khói: khói bốc lên từ mặt đất. Chỉ có sông dài
và biển rộng mới tạo được những làn mây mênh mang. Mộng không phải là đứa con
riêng của mặt trăng. Mộng là đứa con chung của mặt trăng và quả đất. Như là
thuỷ triều. Cuộc đời ra lệnh cho nhà thơ: không được hờ hững với con người.
Nghệ thuật ra lệnh cho nhà thơ: không được quyền viết dở. Mâu thuẫn? Không. Thơ
là tâm huyết. Không thể có thơ hay nếu tâm hồn không tủa ra hàng triệu nhánh rễ
cắm chặt vào đời. Không thể tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa đồng loại nếu mình
chỉ là mình, là cái tháp lẻ loi. Lục Du, nhà thơ lớn đời Tống, trả lời cho đứa
con ham làm thơ của mình:
Nhữ
quả dục học thi
Công
phu tại thi ngoại.
(Nếu mày quả muốn học làm thơ,
Nên nhớ: công phu ở ngoài thơ)
Một kinh nghiệm lớn. Thơ không là chữ. Chỉ mải mê trau
chuốt chữ, may lắm, người ta tạo được những hòn non bộ giả núi vụng về. Sóng
không là bọt nước. Ao tù không có sóng. Hồ con không có sóng. Sông nhỏ không có
sóng. Phải là biển cả mới nổi sóng dạt dào. Tâm hồn có mênh mông như trời đất,
thơ mới là gió nổi xôn xao. Đề tựa Mai Nham thi tập, Trần Bích San viết:
“Cái khó của việc học làm thơ là trong bụng phải làu thông trăm vạn kinh sách,
dưới mắt phải nhìn ngắm mấy vạn núi non tươi đẹp, trên đời phải lịch duyệt mấy
trăm vạn nhân vật cổ kim, trong cõi phải từng trải mấy trăm vạn sự biến, rồi
sau mới hiểu mới thấu, lường mới xa, chí mới cao, khí mới mạnh và lời thơ từ đó
toát ra mới tuyệt diệu". Tất cả những nhà thơ lớn đều là những nhà nhân
bản lớn. Để làm nở ra giấc mộng đẹp, nhà thơ phải trăn trở giữa hàng nghìn cơn
đau rất thực. Phạm Hầu thời tiền chiến có hai câu thơ rất tươi da thắm
thịt:
Nếu
tôi đau, trời đẹp, nếu tôi đau
Mà
muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau.
Thật cao cả, tấm lòng của những kẻ trồng hoa. Họ chấp
nhận mọi thương đau để bầu trời cao hơn, xanh hơn, biêng biếc đẹp, để cho mưa
nắng không còn vô tình nữa và để cho loài người giao cảm được với nhau. Cái giá
phải trả cho những người tự nguyện làm sương khói trang điểm cho trăng, làm mây
giăng trang điểm cho mặt trời: sự bất hạnh. Cũng của Phạm Hầu, bốn câu thơ nao
nao này:
Thuở
nhỏ tôi nằm mơ thấy bướm
Giờ
không mơ bướm lại mơ thơ
Đời
tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng
bởi vì tôi quá mộng hờ.
Họ sẽ được gì, những nhà thơ ấy, những kẻ trồng hoa
kia? Hàn Mặc Tử trả lời không chừng hay hơn ai hết:
Hương
mến yêu là lộc của lời thơ.
Lần này, Hàn Mặc Tử không nằm mộng: ông nói đúng
và thật. Tôi nhớ đến mấy câu thơ của Mai Đình viết cho Hàn Mặc Tử:
Còn
anh, em đã gặp anh đâu
Chỉ
cảm vần thơ có những câu
Âu
yếm say sưa đầy mộng đẹp
Xui
lòng tơ tưởng suốt đêm thâ.
Tôi đã xúc động đến ngẩn ngơ khi có người kể, Hoàng
Cúc, một trong những tình nhân thoáng qua của Hàn Mặc Tử, sau đó, đã không bao
giờ lấy chồng. Bà đi tu. Vừa tụng kinh vừa ngâm nga tập Nắng xuân của Hàn Mặc Tử trong đó có bài “Đây
thôn Vĩ Dạ” với những câu óng ả Ở đây sương khói mờ nhân ảnh / Ai biết tình ai
có mặn mà Hàn Mặc Tử đã viết để tặng riêng cho bà. Nếu lời đồn ấy đúng và nếu
Hàn Mặc Tử biết được, hẳn vong linh của ông bên kia thế giới sẽ đỡ hiu hắt buồn
và sẽ thấy câu thơ của mình ngày nào sao quá đỗi tiên tri:
Hương mến yêu là lộc của lời thơ.
Tôi sẽ xuyên tạc và hạ thấp Hàn Mặc Tử một cách
ngu ngốc nếu chỉ giải thích khái niệm hương mến yêu trong phạm vi thuần tuý
trai gái. Sự thực nội dung hương mến yêu rộng hơn nhiều. Đó là sự đồng cảm giữa
con người với nhau nói chung. Đó là mối "tương liên" giữa thế hệ này
với thế hệ khác, giữa thế kỷ này với thế kỷ khác. Đó là những giọt nước mắt con
người ứa ra qua những tam bách dư niên hậu. Lại nhớ đến Nguyễn Du. Nguyễn Du
viết về Đỗ Phủ:
Dị
đại tương liên không sái lệ
(Khác thời đại thương nhau ứa nước mắt)
Đỗ Phủ sinh năm 712 và mất năm 770 ở Trung Hoa.
Nguyễn Du sinh năm 1766 và mất năm 1820 ở Việt Nam. Tính theo năm sinh,
Nguyễn Du ra đời muộn hơn Đỗ Phủ 1054 năm. Thế nhưng hai người gần nhau biết
mấy. Đêm đêm hồn Nguyễn Du vẫn nằm mộng trong những vần thơ Đỗ Phủ (Mộng hồn dạ
nhập Thiếu Lăng thi). Bao nhiêu khoảng cách bỗng bị xoá nhoà. “Cách
hàng ngàn năm gặp gỡ, tâm sự vẫn giống nhau” (Thiên cổ tương phùng lưỡng bất
vi). Nguyễn Du còn là tác giả của hai câu thơ rất thơ này:
Tưởng
rằng nói để mà chơi
Song
le lại động lòng người lắm thay.
Nguyễn Hưng Quốc
(Trích từ Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam, Quê Mẹ, Paris, 1988)
Nhận xét
Đăng nhận xét