TÊN MỘT SỐ NƠI Ở SÀI GÒN XƯA
TÊN MỘT SỐ NƠI
Ở SÀI GÒN XƯA
Có nhiều nơi ở miền Nam
mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó… riết rồi những
địa danh đó trở thành quen thuộc; nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại
sao nó có tên như vậy?
Bài viết này được hình
thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng
Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích
chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê
hương mình.
Xin mời các bạn cùng
tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác – để đề tài này được đầy
đủ và phong phú hơn.
Đất Nam Việt mà trước
đây người ta còn gọi là Nam Kỳ, người Tây Phương khi đặt chân lên xứ mình hồi
thế kỷ 16, 17 đã gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong.
Người ta cũng gọi xứ
này là Đồng Nai (đồng có nhiều nai), Lộc Dã, Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc
Nông Nại, là nơi mà người Việt mình đặt chân lần đầu tiên năm 1623.
Dong Nai Sử chép rằng
Chúa Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), đã gả Công chúa Ngọc Vạn, lệnh
ái thứ 2, cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở về lên ngôi
báu và đóng đô tại Oulong. Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho phép người
Việt di dân vào Nam Bộ. Chúng ta đã đặt đầu cầu tại Mô Xoài (gò trồng xoài), gần
Bà Rịa đúng vào năm 1623 (theo Claude Madrolle -Indochine du Sud, Paris 1926).
Cũng trong năm này một
phái đoàn ngoại giao đã được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở
Thuế quan Saigon. Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan (1642-1659), em vua trước,
vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đã xin vua Cao Miên cho phép người Việt được quyền
khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.
Sở dĩ vua Cao Miên đã
giao hảo với nước ta và tự ý nhân nhượng một phần nào, là vì muốn cậy thế lực của
triều đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm. Như vậy chúng ta đã đến
sinh cơ, lập nghiệp, khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa thuận hoàn toàn của
đôi bên, chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập. Lại nữa nhờ uy thế của
chúng ta mà Cao Miên đã đối phó hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và bảo
toàn được nền độc lập của mình.
Nói tóm lại sự hiện diện
của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp tình, hợp lý và hợp pháp.
Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất
di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc
và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc Châu.
Con sông Đồng Nai đã
đưa ta đến tỉnh Biên Hòa (hòa bình ở biên cương), một trấn đã được sáp nhập vào
nước ta năm 1653. Khoảng đất này xưa được gọi là Đông Phố đúng ra là Giãn Phố
vì hai chữ Đông và Giãn viết theo chữ Hán hơi giống nhau. Về sau nơi này đã được
triều đình Huế giao cho bọn người Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng
Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù
lao Phố, sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ.
Miền trên Biên Hòa thì
có Hố Nai (hố sập nai), Trảng Bom (trảng là một đồi bằng phẳng và rộng rải có
trồng nhiều cây chum-bao-hom đọc trạnh thành bom, sinh ra một thứ dầu gọi là
chaulmougra, dùng để trị phong hủi. Phía dưới là nhà thương điên Nguyễn Văn
Hoài, một nhà bác học đã quả quyết với chúng tôi rằng trong một đời người, số
giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất cũng được vài năm!
Biên Hòa là quê hương
của Đỗ Thành Nhân, một trong Gia định Tam hùng. Hai người kia là Võ Tánh quê ở
Gò Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An. Biên Hòa là xứ bưởi bòng ngon ngọt có
tiếng nên mới có câu ca dao:
Trang BomThủy để ngư,
thiên biên nhạn
Cao khả xạ hề, đê khả
điếu,
Chỉ kích nhơn tâm bất
khả phòng
E sau lòng lại đổi
lòng,
Nhiều tay tham bưởi
chê bòng lắm anh
Chúng ta đi ngang qua
trước ngọn núi Châu Thới, cao 65m trên có ngôi chùa Hội Sơn, được trùng tu vào
đầu thế kỷ thứ 19, nhờ công đức sư Khải Long:
Bao giờ cạn lạch Đồng
Nai,
Nghiêng chùa Châu Thới
mới sai lời nguyền!
Rồi đến Thủ Đức với những
hồ bơi nước suối, và những gói nem ngon lành. Thủ nhắc lại ngày xưa có những chức
quan văn như thủ bạ, thủ hô lo về việc thuế má và nhơn thế bộ. Do đó mà có những
địa danh như Thủ Thiêm, Thủ Thừa, Thủ Ngữ v.v.. để nhắc lại tên mấy ông thủ bạ
và thủ hộ ngày trước. Miền Thủ Đức lại nhắc cho ta hai câu đối “tréo dò”
Xứ Thủ Đức năm canh thức
đủ
Kẻ cơ thần trở lại Cần
Thơ
Có lẽ vì năm canh thức
đủ mà có kẻ than thân trách phận tự mình sánh với cái nem Thủ Đức lột trần:
Người ta năm chị bảy
em
Tôi đây như thể chiếc
nem lột trần
Phía tay mặt là Gò Vấp,
xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp. Thứ cây này xưa kia được coi như thần mộc,
yểm hộ cho dân tộc Chàm. Dã sử thuật lại rằng vào đời vua Chiêm cuối cùng là Pô
Romé (1627-1651), vua này muốn vừa ý một ái phi người Việt đã ra lệnh đốn cây
Kraik (vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự uyển. Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng
không sao hạ nổi vì vết rìu mỗi lần bổ xong thì khép lại ngay. Nhà vua tức giận
cầm lấy rìu hạ xuống một nhát, tức thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống
giữa một vũng máu. Và cũng từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày tàn tạ.
Bây giờ ta vào thành
phố Saigon, nơi mà 300 năm về trước (1674) tiền đạo quân ta lần đầu tiên đã đặt
chân tới,mang theo khẩu hiệu: “Tĩnh vi nông, động vi binh”. Quân ta không phải
tư động mà đến, chính là do lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy
giờ. Họ khai khẩn đất đai với sức dẻo dai sẵn có, đào sông ngòi trong vùng đất
thấp và đây đó khắp nơi, xây dựng thành trì kiên cố.
Một trong những công
tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772, rồi đến thành trì Phan An
xây năm 1790, kế đến là thành Gia Định xây năm 1836. Những thành ấy xây đắp với
mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đã ghi trong câu ngạn ngữ:
Dân đất Bắc
Đắp thành Nam:
Đông đã là đông!
Sầu Tây vòi vọi!
Chúng ta đang ở trung
tâm thành phố Saigon (sài là củi, gòn là bông gòn) chuyển sang chữ nho thành Sài-Côn
là củi gòn, vì chữ nôm gòn viết là Côn, như Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã
ghi trong tác phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng còn một bản dịch ra
pháp văn của ông Gabriel Aubaret.
Theo một số người khác
thì Saigon có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay Thay gon theo giọng Quảng
Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu, dùng để chỉ thành phố do người Tàu lập
nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên hòa vì chiến sự giữa Nguyễn Ánh và Tây
Sơn, để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa Nguyễn đóng tại Bến Nghé.
Nguyên ủy xa hơn cả có
lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối cổ Preikor, có nghĩa là rừng gòn, một
loại cây hiện nay còn trồng ở Thủ Đô.
Theo Ông Verdeille thì
Saigon có thể là hai chữ nho: Tây Cống đọc chạnh ra, tên này ám chỉ rằng thành
phố là phần đất xưa kia đã được các vị vua phía Tây cống hiến cho ta. Ta nên
lưu ý rằng tên Siagon chỉ được dùng trong các văn kiện của Pháp kể từ 1784 trở
đi mà thôi.
Còn danh xưng của Chợ
lớn mà người Tây đọc liền lại là Cholon, nó chỉ ngôi chợ xưa kia nằm trên địa
điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ lớn kéo dài tới tận Đại Thế Giới cũ. Chợ này
lập song song với chợ nhỏ hiện nay còn tồn tại với tên chợ Thiếc ở phía trường
đua Phú Thọ. Về sau Chợ lớn được dời tới Chợ lớn mới do nhà đại phú Quách Đàm
xây tặng, tượng họ Quách vẫn còn ở giữa đỉnh chợ Bình Tây
Sự biến đổi địa âm dạng
của địa danh Saigon đã tùy sự hiện diện liên tiếp của những người quốc tịch
khác nhau như Preikor (rừng gòn), Tai- Ngon hay Thầy gòn của người Trung Hoa mà
ta đọc là Đê-ngan, người phương tây dùng chữ la mã ghi là Saigon từ năm 1784.
Hồi xưa tên Saigon chỉ
áp dụng cho khu vực Chợ lớn hiện thời, còn chính Saigon bây giờ thì khi ấy là Bến
Nghé (theo Trịnh Hoài Đức, theo các nhà hàng hải Âu Mỹ, theo bản đồ do ông Trần
Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp năm Gia Long thứ 14 (1815) ghi trên vùng Chợ
lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ Rẫy ba chữ Saigon xứ, khoảng gần Cây Mai và Phước
Lâm. Khu Saigon cao, nằm phía Đồn Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi
Lê Văn Khôi nổi loạn, chắc đã có người ở từ thời thượng cổ, chứng cớ là những
khí giới và đồ dùng bằng đá mài tìm thấy khi đào móng nhà thờ Đức Bà. Khu thấp
thường gọi là Bến Nghé hay bến Thành.
Bến Thành là cái tên ở
gần hào thành Gia Định, nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến
Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bền Thành. Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại lộ
Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu ca dao như sau:
Chợ Bến Thành đèn xanh
đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy
rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang
giàu,
Rau dưa mắm muối có
nơi nào hơn em!
Bến Nghé theo Trịnh
Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con, do một tên rất cũ là Kompong Krabey
(bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng ông Đốc phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho
rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thường kêu nghé nên gọi là Bến Nghé- Trịnh
hoài Đức dịch là “Ngưu-tân” Bến Nghé là cái bến sông Saigon có tên là sông Bến
Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót (theo
gia-định thống chí). Còn cái rạch Bến nghé nối dài bởi kinh Tàu hủ (Arroyo
chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi
là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé tức là Saigon và khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé tức là
nói đến Nam Bộ vậy.
Phía đông Saigon có một
cái kênh gọi là rạch Thị Nghè hay là rạch Bà Nghè. Bà tên là Nguyễn Thị Canh,
con gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn Trường Hầu, đẹp duyên với một ông
nghè. Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng ngày vào làm trong thành, bà cho
dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng được. Để tỏ lòng nhớ ơn một bậc nữ
lưu, họ đã gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè. Đến khi Tây đến đánh thành Saigon, pháo hạm
Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên nên họ mới gọi là Arroyo de l’Avalanche.
Trên rạch Bến Nghé hồi
xưa có nhiều chiếc cầu ván dựng tạm cho người qua lại. Chiếc cầu nổi tiếng hơn
cả là cầu Ông Lãnh, được xây nhờ công ông Lãnh binh, thời tả quân Lê Văn Duyệt.
Còn những chiếc cầu khác là Cầu Muối, Cầu Khóm (thơm), Cầu Kho và Cầu học (giếng
học). Về các công sự thì có :
Dinh Norodom khởi công
ngày chủ nhật 23/2/1868 với sự tham dự dông đảo của dân chúng. Thủy sư Đô Đốc
De La Grandìère với sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte từ HongKong tới, đã
đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa mét,trong đó đựng một hộp chì chứa
nhũng đồng tiền vàng và bạc dập hình vua Napoléon III. Đức Giám mục Miche, cai
quản địa phận,với một số đông con chiên, đã ban phép lành và đọc một diễn văn lời
lẽ cao quý đã làm cử tọa đặc biệt chú ý. Công cuộc xây cất trên một khoảng đất
rộng 14 mẫu tây đã phải dùng tới hai triệu viên gạch,và cái móng dày tới 3,5m tốn
mất 2.436 thước khối đá xanh Biên Hòa. Công tác đã hoàn thành năm 1875 và người
đầu tiên đến ở trong dinh đó là Thủy sư Đô Đốc Roze. Sau 84 năm Pháp thuộc,
ngày 7/9/1954 Đại tướng Ely, Cao ủy Pháp đã trả dinh thự này cho Chính phủ Việt
Nam thời bấy giờ.
Tòa Đô Sảnh
(1901-1908) trên có một gác chuông do họa sĩ Ruffier trang trí mặt tiền
Viện Bảo Tàng Quốc Gia
xây năm 1927, khánh thành ngày 1/1/1929, bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại
ngày 8/3/1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam ngày 19/9/1951 thu thập tới
4.000 cổ vật đã kê thành mục lục và trình bày trong 14 gian phòng.
Vườn Cầm Thảo (Sở Thú)
tương tự với rừng Vincennes ở Pháp, được lập năm 1864. Sau khi đã san bằng,việc
đứa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865. Ngày 28/3/1865 nhà thực vật học
Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm Thảo Saigon và ngày nay nhiều giống
cây ở xứ ta còn mang tên nhà bác học ấy.
Đây đó ta còn gặp một
số địa danh nguồn gốc Tây Phương như: Ba-Son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu
(bassin de radoub) xây bằng ximăng cốt sắt từ năm 1858, và bến tàu nổi được hạ
thủy tháng giêng năm 1866. Chữ Ba-Son do chữ Bassin mà ra.
Tao DanVườn Bờ Rô (do
chữ Jardin des Beaux Jeux) hay là vườn Ông Thượng, xưa kia là hoa viên của Tổng
Trấn Lê Văn Duyệt, nay là vườn Tao Đàn.
Dakao là biến danh của
Đất Mộ (đất của lăng)
Lăng-tô là biến danh của
Tân Thuận, tên một làng mà dân Saigon thường đến hóng mát (pointe des
flaneurs).
Bây giờ chúng ta rời
Saigon xuống đò Thủ-Thiêm qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ đang trù định
một chương trình kiến thiết rộng lớn,để biến nơi này thành một khu vực nguy nga
tráng lệ.
Con đò Thủ-Thiêm ngày
xưa đã hấp dẫn một số đông những chàng trai trẻ:
Bắp non mà nướng lửa
lò,
Đố ai ve được con đò
Thủ Thiêm.
nhưng một ngày kia
chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến tranh,đến khi trở về thì than ôi:
Ngày đi trăm hoa hẹn
hò,
Ngày về vắng bóng con
đò Thủ Thiêm!
Từ Thủ-Thiêm chúng ta
thẳng tiến đến một nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngã Ba Sông Nhà Bè, nơi mà con sông
Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng gọi là sông Bến Nghé. Ngày xưa ở chỗ ấy ông
Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ đường và ngày nay
còn vọng lại mấy câu hò tình tứ của cô lái miền quê:
Nhà Bè nước chảy chia
hai:
Ai về Gia định Đồng
Nai thì về!
Rời Nhà Bè, chúng ta
trở lại Saigon để đi về miền Bà Chiểu, một vùng ngoại ô trù mật ở phía đông,
chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu Bông, vì xưa kia ở gần đó Tả Quân
Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn mục. Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia định, nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn
Duyệt (1764-1832), một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị
thần thánh.
Theo Trương Vĩnh Ký
thì Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông Lãnh Binh đã xây cái cầu ông Lãnh. Theo phương pháp kinh tế tự túc mà
các cụ ngày xưa thường áp dụng, ông đã lập ra 5 cái chợ, giao cho mỗi bà cai quản
một cái: Bà Rịa (Phước Lễ), Bà Chỉểu (Gia-Định), Bà Hom (Phước Lâm), Bà Quẹo
(phía Quán Tre) và Bà Điểm (phía Thụân Kiều). Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân Thới
quê hương của Cụ Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên, thi phẩm đầu giường của đồng
bào Nam bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng ở Miền Nam. Món trầu là đầu câu chuyện,
cho nên bao nhiêu chuyện,hay dở gì cũng do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra
cả :
Trồng trầu trồng lộn
dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều
con hư!
Từ Bà Chiểu chúng ta
trở lại Saigon để rẽ về Phú Nhuận, qua Cầu Kiệu hay là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa
kia trồng rất nhiều hành kiệu. Phú Nhuận (giàu sang và thuần nhã) là nơi còn
nhiều cổ tích như : Lăng Đô-đốc Võ Di Nguy, mất tại cửa bể Thị Nại năm 1801.
Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Võ Quốc Công tức là hậu quân Vũ Tính, nơi đây vua
Gia-Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế vào để tỏ lòng mến tiếc. Võ Tánh
là một trong Gia-Định tam hùng mà dân chúng nhắc tới trong những điệu hò giao
duyên.Theo thường lệ :
Người con gái lên tiếng
trước:
Nghe anh làu thông lịch
sử,
Em xin hỏi thử đất
Nam-Trung:
Hỏi ai Gia-Định tam
hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy
chung một lòng?
Người con trai liền đáp lại:
Ông Tánh, Ông Nhân cùng Ông
Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một
lòng
Nổi danh Gia-Định tam
hung:
Trọn nghĩa thủy chung
có Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh, trọn
nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác
thiêu mình như không!
Về phía Tân Sơn hòa có
Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc Việt Nam xưa nhất ở vùng Saigon. Nơi đây
mai táng Đức Giám Mục Bá-Đa-Lộc, mất tại cửa Thị Nại năm 1799.
Rời khỏi ngoại ô
Saigon chúng ta thuê một chiếc thuyền con về vùng Lái Thiêu (tức là ông Lái gốm
họ Huỳnh đã thiêu nhà vì say rượu) để thăm vườn trái :
Ghe anh Nhỏ mũi tráng
lường
Ở trên Gia Định xuống
vườn thăm em
Nơi đây quy tụ rất nhiều
trái ngon đặc biệt như : dâu da, thơm, bòn bon, mít tố nữ, măng cụt và nhất là
sầu riêng (durian) là giống cây từ Mã Lai đưa vào Cây Sầu riêng thân cao lá ít,
trái có gai bén nhọn kinh khủng, cho nên trời chỉ cho phép nó rụng khi đêm
khuya thanh vắng mà thôi! Đồng bào Nam-bộ liệt nó vào hàng đầu trong các loài
trái, vì nó có đủ năm mùi hương vị đặc biệt như quả lê Trung hoa. Những người
xa lạ phải chịu nhẫn nại một thời gian mới thông cảm và khi đã thông cảm rồi
thì thèm muốn như mê say, chỉ trừ anh học trò thi rớt:
Có anh thi rớt trở về
Bà con đón hỏi nhiều bề
khó khăn
Sầu riêng anh chẳng buồn
ăn,
Bòn bon, tố nữ anh quăng
cùng đường!
Tại vùng Lái Thiêu, có
một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ XVIII trên ngọn đồi xinh tươi, chung
quanh có nhiều lò gốm, lò sành và một trường dạy học cho trẻ em câm điếc với một
phương pháp riêng biệt.
Đến Búng chúng ta
không quên đi thăm chùa Phước Long ở vùng An Sơn, có ông huề thượng thâm nho,
thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho những khách nhàn du :
Rượu áp sanh
(absinthe) say chí tử
Có người đã đối lại
như sau:
Bóng măng cụt mát nằm
dài
Trong chùa ông huề thượng
có ghi hai câu:
Cúng bình hoa, tụng
pháp hoa, hoa khai kiến Phật.
Dâng nải quả, tu chánh
quả, quả mãn thông Thần
(sưu tầm bài viết của
ông Tân Việt Điêu trong Văn hóa nguyệt san số 33 năm 1958)
Tên gọi
Saigon từ đâu?
Đây là một đề tài được
các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức. Cho
đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3
thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây :
Sài Gòn từ Thầy Ngòn
(Đề Ngạn), Xi- Coón (Tây Cống): Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân
Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người bị giặc Cờ Đen phục kích chết ). Theo
Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine và Garnier, Cholen,
thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ
Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là Tai-ngon hay Ti-ngan. Sau dó,
người Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học
giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ
âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì
không phải.
Tại sao? Vì lịch sử chứng minh rằng Saigon có trước, rồi
người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục
của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh
chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở “Luỹ Sài Gòn”(theo Hán-Việt viết là “Sài
Côn”). Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn
xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán “Côn”
được dùng thế cho “Gòn”. Nếu đọc theo Nôm là “Gòn”, còn không biết đó là Nôm mà
đọc theo chữ Hán thì là “Côn”.
Như vậy, ngay từ năm
1674 đã có địa danh Saigon ! Thì làm gì
phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống
lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
Sài Gòn từ Củi Gòn,
Cây Gòn, Prey Kor. Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự
“nghe nói” như sau:
“Sài là mượn tiếng viết
theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn . Người ta nói rằng
tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng
chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng
lân cận”.
Không biết tại sao mà
sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là “của”
Trương Vĩnh Ký , mặc dù ngay sau đoạn
này, TVK lại viết tiếp “Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt
cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc
đích thực của tên đó”.
Tương tự, có nhiều
thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ “Cây Gòn” (Kai Gon) hay “Rừng Gòn” (Prey
Kor) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông
gòn.
Nhưng thuyết này phần
lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ “rừng
gòn” ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà bác học
Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm
sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sàigòn
không có phát triển hay thay đổi gì cho lắm. Cay gonNgay cả khi Louis Malleret
khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sàigòn.
Sài Gòn từ Prei Nokor:
Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện
nay được coi như là “most likely”.
Chính Petrus Trương
Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã
công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là
Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokọr
Trước nhất, theo sử
Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa
Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Saigon)
và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục
các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài
Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ (Sài Gòn Hạ).
Đó là theo sử sách,
còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người
Miên mượn), có nghĩa là “thị trấn ở trong rừng”, Prei hay Brai là rừng, Nokor
hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như
đã nói ở trên.
Theo tiến trình của
ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI, thành”Sài”, Nokor bị bỏ “no” thành
“kor”, và từ “kor” thành “Gòn”. Từ Prei Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ
sợ !
Còn sở dĩ có Saigon viết
dính nhau là do các giáo sĩ Tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in.
Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc “sai” ra “sê” theo giọng Pháp nên Saigon được
viết với hai dấu chấm trên chữ i.
HỒ ĐÌNH VŨ
Nhận xét
Đăng nhận xét