ĐIÊN CỐ CÓ NGUỒN GỐC TRUYỆN KIỀU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
ĐIÊN CỐ CÓ NGUỒN GỐC TRUYỆN KIỀU
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
Truyện Kiều (TK) là đóng góp to lớn của
Nguyễn Du đối với nền văn học Việt Nam trên nhiều phương diện. Một phương diện
trong đóng góp ấy là kiệt tác này đã trở thành nguồn gốc của điển cố độc đáo,
giá trị trong văn học nước ta; bổ sung và làm phong phú cho kho tàng điển cố nội
sinh của văn học Việt Nam như là một đối trọng với hệ thống điển cố ngoại lai
mà chủ yếu là điển cố gốc Hán.
Truyện Kiều trở thành kho tàng điển cố
Sẽ có nhiều người ngạc nhiên khi khẳng định
TK là một trong những kho tàng, xuất xứ của nhiều điển cố được sử dụng trong
văn học Việt Nam. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về bản chất, cơ chế hình thành và con
đường giải mã của điển cố cũng thực tế ảnh hưởng của TK trong đời sống văn học
Việt Nam, chúng ta đủ các cơ sở thuyết phục để khẳng định điều này.
Như đã biết, điển cố là một phương tiện tu
từ đặc biệt của văn học trung đại. Theo Đoàn Ánh Loan trong “Điển cố và nghệ
thuật sử dụng điển cổ” (Nxb. ĐHQG TP. Hồ Chí Minh – 2003), điển là “những từ ngữ
về chuyện xưa, tích cũ, về tư tưởng, hình tượng trong sách xưa được tác giả
dùng làm phương tiện để diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc” (tr.20). Về
hình thức của điển, theo tác giả, đó là những “từ hay nhóm từ được lấy ra từ những
câu chuyện trong kinh, sử, tử, truyện, các sách ngoại thư… về nhân vật lịch sử,
sự kiện lịch sử, địa danh, những quan niệm trong cuộc sống” và “từ hay nhóm từ
mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người trước, hay được trích từ thành ngữ,
tục ngữ, ca dao có tích truyện được lưu truyền hoặc đã nổi tiếng” (tr.20).
Về bản chất, điển là những “từ hay nhóm từ”
có hình thức ngắn gọn, gắn liền với một nhân vật, địa danh, câu chuyện, tư tưởng,
bài thơ nổi tiếng trong lịch sử, văn hóa, văn học, được dẫn dụng lại trong tác
phẩm văn học (và cả những lĩnh vực khác như âm nhạc, ngôn ngữ đời sống…) nhằm
diễn đạt cho một ý nghĩa khái quát nào đó. Cơ chế hình thành của điển là rút gọn
câu chuyện, tư tưởng, ý thơ thành một ngữ liệu có hình thức tối giản. Một ngữ
liệu thỏa mãn những điều trên có khả năng trở thành điển cố.
Trong văn học thế giới, một tác phẩm trở
thành xuất xứ của điển cố là hiện tượng khá phổ biến. Trong văn học Trung Hoa,
Kinh thi, Sở từ, Đường thi, các bộ kinh sử tử tập là xuất xứ của phần lớn điển
cố. Trong văn học phương Tây, phần nhiều điển có xuất xứ từ Kinh thánh, thần
thoại Hy Lạp. Trong văn học Việt Nam, hiện tượng này cũng không phải là quá hiếm.
Một số bài ca dao, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích, truyền thuyết, tác phẩm văn
học viết, trong đó có TK, chính là nguồn gốc của hầu hết điển cố nội sinh trong
văn học nước ta.
TK là kiệt tác của nền văn học Việt Nam,
có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn học nước ta, được đông đảo các tầng lớp độc
giả nhiều thế hệ yêu quý, nâng niu. Nhiều nhân vật, tích truyện, câu thơ trong
tác phẩm của Nguyễn Du đã trở nên hết sức quen thuộc, không chỉ trong văn học
mà cả trong đời sống, được sử dụng với tư cách là những điển cố, tức là những
ngữ liệu mang ý nghĩa khái quát hơn so với ý nghĩa ban đầu trong tác phẩm.
Thông thường, một tác phẩm thơ thường là
xuất xứ của một vài điển cố. Trong khi đó, TK lại là nguồn gốc của hàng trăm điển
bởi đây là một tác phẩm tự sự bằng thơ có dung lượng khá lớn (3.254 câu thơ lục
bát). Hơn nữa, điển xuất xứ từ TK còn khá đa dạng. Điều này phần nào được thể
hiện trong 3 kiểu điển chính dưới đây.
Các dạng điển cố có nguồn gốc Truyện Kiều
Điển nhân danh
Điển nhân danh là một bộ phận quan trọng,
chiếm số lượng lớn trong kho tàng điển cố. Loại điển này có hình thức ngắn gọn
một từ hoặc một cụm từ, là tên gọi (tên tự, tên hiệu, tên gọi lên chức danh,
cách xưng hô…) của một nhân vật trong lịch sử, truyền thuyết, văn học. Trong
TK, Nguyễn Du sử dụng nhiều điển nhân danh, hầu hết đều có nguồn gốc Hán, chẳng
hạn: Nàng Oanh, ả Lý (Dâng thư đã thẹn nàng Oanh/ Lại thua ả Lý bán mình hay
sao), Tống Ngọc, Trường Khanh (Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh)…
Cơ chế hình thành của kiểu điển cố này như
sau: Từ một nhân vật chính (có tài năng, phẩm chất đặc biệt hoặc gắn với một sự
kiện nổi tiếng nào đó) trong lịch sử, văn hóa, văn học, người ta rút gọn chỉ
còn tên (thậm chí gọn hơn chỉ còn họ, bỏ qua các phương diện còn lại của nhân vật)
và đưa vào sáng tác để khái quát cho một ý nghĩa nào đó. Chẳng hạn, điển nàng
Oanh, ả Lý để chỉ cho những người con hiếu thảo. Khi tiếp xúc “mã tên gọi” này,
theo cơ chế giải mã của điển cố, người đọc phải truy ngược về các đặc điểm con
người (phẩm chất, tài năng, tính cách), sự nghiệp, câu chuyện nổi tiếng liên
quan đến nhân vật để hiểu ý nghĩa của “mã tên gọi” ấy, tức điển nhân danh được
nhà văn dẫn dụng.
Theo cơ chế này, tên gọi của nhiều nhân vật
nổi tiếng trong TK như Thúy Kiều, Kim Trọng, Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải được
các tác giả đời sau đưa vào sáng tác của mình với tư cách là những điển cố nhân
danh. Dạng điển nhân danh có nguồn gốc TK trong văn học Việt Nam có số lượng
khá lớn, xuất hiện cả trong văn học dân gian và văn học viết.
Ảnh hưởng của TK đối với văn học dân gian
khá đa dạng. Một trong những biểu hiện của sự ảnh hưởng đó là nhiều điển cố
nhân danh được tác giả dân gian lấy từ nguồn gốc TK, chẳng hạn như trong bài ca
dao sau: Sen xa hồ, sen khô, hồ cạn/ Liễu xa đào, liễu ngã, đào nghiêng/ Anh xa
em như bến xa thuyền/ Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái hồi.
Trong văn học viết, nhiều tác giả của văn
học trung đại, văn học hiện đại đã mượn lại tên nhân vật trong TK với tư cách
là những điển cố. Chẳng hạn, Nguyễn Công Trứ với hai câu thơ: Nghĩ mình chưa phải
tình Kim Trọng/ Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều (Trách nhân tình) hay Nguyễn Bính
trong bài Cảm tác: Bá Nha thuở trước còn Chung Tử/ Kim Trọng đời nay hết Thúy
Kiều.
Bên cạnh điển Thúy Kiều, Kim Trọng thường
xuyên xuất hiện, các điển nhân danh khác có nguồn gốc TK cũng được các tác giả
đời sau dẫn lại, như trong các câu thơ sau: Song còn bao nỗi chua cay/ Gớm quân
Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh (Tố Hữu, Kính gửi cụ Nguyễn Du), Chỗ anh thương
ít/ Sao anh xít ra nhiều/ Anh hổng coi Từ Hải/ Thương nàng Kiều mấy năm, Anh mà
bắt chước Thúc Sinh/ Thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư (ca dao)…
Trong các tác phẩm này, với những “mã tên
gọi” trên, nếu một người chưa từng đọc TK, chưa tiếp xúc với “văn hóa TK” thì
chắc hẳn rất khó để hiểu. Để hiểu được những mã này, người đọc phải tuân theo
nguyên tắc giải mã của điển cố. Đó là từ tên gọi lần tìm về nhân vật trong TK với
các đặc điểm ngoại hình, tài năng, tính cách, cuộc đời… để hiểu ý nghĩa của những
tên gọi trên, trên cơ sở đó hiểu được ý nghĩa của tác phẩm. Chẳng hạn, với điển
Thúc Sinh, người đọc phải lần tìm về đặc điểm của nhân vật này (không chung
tình) để từ đó tìm ra ý nghĩa khái quát chỉ “người đàn ông trăng hoa”; với điển
Hoạn Thư, ý nghĩa khái quát là “người đàn bà ghen tuông”…
Điển tích truyện
Điển tích truyện cũng là một dạng phổ biến
của điển cố. Kiểu điển này có nội dung gắn liền với một câu chuyện nổi tiếng
trong lịch sử, truyền thuyết, văn hóa. Cơ chế hình thành của kiểu điển này là
rút gọn câu chuyện nổi tiếng thành một từ, cụm từ hoặc câu ngắn gọn nhằm khái
quát cho một ý nghĩa nào đó. Cơ chế giải mã của dạng điển này là từ những “mã
tích truyện” có hình thức ngắn gọn, người đọc phải truy ngược về câu chuyện dài
hàm chứa bên trong để tìm ra ý nghĩa khái quát của điển.
Trong TK, Nguyễn Du dẫn dụng nhiều điển
tích truyện có nguồn gốc Hán. Hầu hết những điển này đều được nhà thơ sử dụng một
cách linh hoạt, tài hoa, mang lại nhiều giá trị độc đáo. Có thể kể ra một số điển
như: bể dâu (chuyển dịch từ điển thương hải tang điền, trong câu Trải qua một
cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng), lá thắm chỉ hồng (chuyển dịch
từ điển hồng diệp xích thằng, trong câu Dù khi lá thắm chỉ hồng/ Nên chăng thì
cũng tại lòng mẹ cha), gương vỡ lại lành (chuyển dịch từ phá kính trùng viên,
trong Bây giờ gương vỡ lại lành/ Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi)…
Không chỉ vay mượn từ kho tàng điển cố gốc
Hán, TK còn là nơi phát sinh nhiều điển cố tích truyện được dẫn lại trong văn học
Việt Nam. Đó là những câu chuyện nổi tiếng trong tác phẩm này được các tác giả
đời sau đưa vào sáng tác với tư cách là những điển cố. Chẳng hạn, trong bài ca
dao dưới đây, tác giả dân gian đã dẫn một điển liên quan đến câu chuyện Kim Trọng
lần đầu gặp Kiều: Vừa ra vừa gặp người xinh/ Cũng bằng Kim Trọng tiết thanh
minh gặp Kiều. Mở đầu bài thơ Kiều bán mình, Nguyễn Khuyến dẫn ra một điển gắn
với câu chuyện gia đình Kiều bị vu oan, trong câu: Thằng bán tơ kia dở giói ra/
Làm cho bận đến cụ viên già. Trong bài thất ngôn bát cú Thúy Kiều lúc ra tu
chùa Hoạn Thư, Tản Đà đã dẫn lại điển gắn với việc Kiều trộm chuông vàng khánh
bạc trốn khỏi nhà họ Hoạn trong câu: Nọ những chuông vàng cùng khánh bạc/ Này
thôi má phấn với lầu xanh. Trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du, Tố Hữu dẫn lại một
điển gắn với câu chuyện Kiều tự vẫn trên sông Tiền Đường: Ngẩn ngơ trông ngọn cờ
đào/ Đành như thân giá sóng xô Tiền Đường.
Nhìn chung, phần điển tích truyện có nguồn
gốc TK đều xoay quanh nhân vật trung tâm của tác phẩm là Thúy Kiều, gắn với những
bước ngoặt lớn trong cuộc đời chìm nổi của nhân vật này. So với các dạng khác,
điển tích truyện có nguồn gốc TK chiếm tỉ lệ nhỏ hơn.
Điển thơ ca
So với kiểu điển nhân danh, tích truyện,
điển thơ ca có nguồn gốc TK chiếm số lượng lớn hơn cả. Cơ chế hình thành của kiểu
điển này là mượn lại ý thơ, lời thơ ở hình thức rút gọn hoặc cải biên. Trong
tác phẩm của Nguyễn Du, có nhiều điển thơ ca mượn từ Kinh thi (như điển quả mai
trong câu Quả mai ba bảy đương vừa, điển cù mộc trong câu Một cây cù mộc một
sân quế hòe), thơ Trung Hoa cổ (như điển Cỏ non xanh rợn chân trời/ Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa mượn từ hai câu thơ Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ
điểm hoa), thơ Đường (như điển hoa đào năm ngoái mượn ý từ bài Đề đô thành nam
trang của Thôi Hộ, điển Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều lấy ý từ trong bài
Xích Bích hoài cổ của Đỗ Mục)…
TK là áng văn chương trác truyệt, “Đại Việt
thiên thu tuyệt diệu từ”, là “khúc Nam âm tuyệt xướng”. Ngay đương thời, văn
chương TK đã có ảnh hưởng lớn đến sáng tác văn học. Rất nhiều ý thơ, câu thơ của
kiệt tác này được dẫn lại trong các tác phẩm. Và nhiều trong số đó đã trở thành
điển cố.
Trong văn học dân gian (chủ yếu là ca dao)
có nhiều câu dẫn điển thơ ca mượn từ TK, chẳng hạn: Vầng trăng ai xẻ làm đôi/
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng, Ra tay mở khóa động đào/ Thực tiên thì
được bước vào chơi tiên…
Trong văn học viết, ngay từ thời Nguyễn Du
đã có nhiều nhà thơ sử dụng điển cố thơ ca có nguồn gốc TK. Có thể kể ra một
vài trường hợp điển thơ ca có nguồn gốc TK tiêu biểu được dẫn lại trong văn học
viết như:
- Nguyễn Công Trứ: Trai anh hùng gặp gái
thuyền quyên, Châu Trần còn có châu Trần nào hơn (Duyên gặp gỡ), Biết đâu ấm lạnh,
biết đâu ngọt bùi, Dập dìu những văn nhân tài tử (Nhàn nhân với quý nhân)…
- Tản Đà: Ngày xuân con én con oanh/ Ve
ngâm vượn hót để dành đêm thu, Ngày xuân ngắn lắm ai ơi/ Khổ cho cái én đưa
thoi hết ngày (Phong, mượn từ câu Ngày xuân con én đưa thoi trong Kiều)…
- Đoàn Phú Tứ: Tóc mây một món chiếc dao
vàng (Màu thời gian, mượn chữ và ý từ câu Tóc mây một món, dao vàng chia đôi
trong Kiều)…
- Nguyễn Bính: Thương vui bởi tại lòng
này/ Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời (Vịnh cụ Tiên Điền, mượn từ hai câu:
Tẻ vui bởi tại lòng này, Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời trong Kiều)…
Có thể nói, hiếm có tác phẩm nào có sức
lan tỏa sâu rộng như TK. Từ bói Kiều, vịnh Kiều, ngâm Kiều, nhại Kiều, đố Kiều,
trò Kiều đến lẩy Kiều, tập Kiều… tất cả làm nên một “văn hóa TK” đặc sắc trong
đời sống văn hóa, văn chương nước ta. Trong những hình thức này, lẩy Kiều, tập
Kiều, xét về bản chất, có thể xem là nghệ thuật dụng điển thơ ca có xuất xứ TK
của các tác giả.
Đóng góp của Truyện Kiều với kho tàng điển cố nội sinh
Trước hết, cần khẳng định tính dân tộc của
điển cố có xuất xứ TK. Mặc dù các nhân vật, tích truyện trong tác phẩm này đều
xuất phát từ Kim Vân Kiều truyện của Trung Hoa nhưng nếu không có kiệt tác TK,
có lẽ không mấy người Việt biết đến chúng. Hơn nữa, những điển cố này đều do
người Việt sáng tạo trong quá trình tiếp nhận TK (trong văn học Trung Hoa có lẽ
không có các điển cố này), bộ phận lớn trong chúng là điển thơ ca lại bắt nguồn
từ những câu thơ lục bát TK mang tính dân tộc đậm đà. Điển cố có nguồn gốc TK
chính là một đóng góp của TK đối với kho tàng điển cố trong văn học nước ta nói
riêng, văn học Việt Nam nói chung.
Trong tiến trình phát triển của mình, văn
học Việt Nam thời trung đại luôn vận động theo khuynh hướng dân tộc hóa. Từ việc
chịu ảnh hưởng trên nhiều phương diện của văn học Trung Hoa, văn học nước ta đã
tìm về với các giá trị nội sinh để bứt phá ra khỏi từ trường của văn hóa Hán học,
vươn tới những bước phát triển mới. Chữ Nôm ra đời, cùng với các thể loại văn học
dân tộc (thơ lục bát, song thất, hát nói…) ngày càng được ưu tiên sử dụng, giữ
vai trò là thành tựu lớn nhất của nhiều thời kỳ văn học là những biểu hiện rõ
nét cho khuynh hướng vận động này.
Trên phương diện lịch sử sử dụng điển cố,
việc điển cố nội sinh ra đời và ngày càng được sử dụng phổ biến, đem lại nhiều
giá trị thẩm mỹ quan trọng trong văn học cũng là một biểu hiện như vậy. Không
chấp nhận chỉ vay mượn trong kho tàng điển cố gốc Hán, cha ông ta đã sáng tạo
ra nhiều điển cố nội sinh có nguồn gốc từ văn hóa, văn học dân gian, văn học viết
của dân tộc. TK là một trong những tác phẩm được viện dẫn nhiều nhất, là xuất xứ
của nhiều điển cố nội sinh nhất.
Do các điều kiện lịch sử, văn hóa, kho
tàng điển cố nội sinh trong văn học nước ta không đồ sộ, phong phú như điển gốc
Hán. Số lượng tác phẩm trở thành xuất xứ điển không nhiều, tác phẩm văn học viết
lại càng ít ỏi. Trong bối cảnh đó, TK của Nguyễn Du đã đóng góp vào kho tàng điển
nội sinh hàng trăm điển cố có giá trị, góp phần đưa điển nội sinh trở thành đối
trọng với điển cố ngoại lai (chủ yếu gốc Hán) trong vai trò mang đến các giá trị
thẩm mỹ cho tác phẩm. Đó là những đóng góp to lớn của TK đối với văn học trung
đại Việt Nam trên phương diện lịch sử sử dụng điển cố. Ngày nay, không chỉ
trong văn chương, những điển nhân danh như Thúc Sinh, Hoạn Thư, Sở Khanh, những
điển thơ ca như trong cõi người ta, nghề chơi cũng lắm công phu, còn trời còn
nước còn non… đã trở nên quen thuộc trong đời sống ngôn ngữ, báo chí. Rõ ràng,
cùng với sức lan tỏa sâu rộng của tác phẩm, nhiều điển cố nội sinh có nguồn gốc
TK cũng có một sức sống lâu bền, có vị trí nhất định trong đời sống văn chương,
ngôn ngữ của dân tộc.
Có thể nói, TK là tác phẩm có vị trí đặc
biệt trong lịch sử sử dụng điển cố trong văn học Việt Nam. Cũng vay mượn nhiều
điển cố gốc Hán nhưng khác với nhiều tác phẩm khác, kiệt tác của Nguyễn Du còn
trở thành nguồn gốc của hàng trăm điển cố nội sinh có giá trị, được sử dụng phổ
biến trong văn học Việt Nam, góp phần làm phong phú kho tàng điển cố nội sinh của
văn học dân tộc. Đây là một trong những đóng góp quan trọng của TK đối với nền
văn học nước ta.
ThS PHẠM TUẤN VŨ – ThS NGUYỄN THỊ HƯƠNG
LÀI
Nhận xét
Đăng nhận xét