VĂN NHƯ SIÊU QUÁT VÔ TIỀN HÁN - THI ĐÁO TÙNG TUY THẤT THỊNH ĐƯỜNG
VĂN NHƯ SIÊU QUÁT VÔ TIỀN HÁN
THI ĐÁO TÙNG TUY THẤT THỊNH ĐƯỜNG
Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ
Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử
thi.
Chân dung Cao Bá Quát - Ảnh: wiki
Chữ “vô” (無) và chữ “thất” (失) là hai từ
“mắt khóa” để bật mở ra ý nghĩa hai câu đối và rồi dịch ra tiếng Việt một cách
nhẹ nhàng như sau:
“Văn của ông Siêu, ông Quát khiến thời Tiền
Hán phải chịu,
Thơ của Tùng Công, Tuy Công thì thời Thịnh
Đường phải nhường”.
Tưởng cũng cần chép lại nguyên tác bằng chữ
Hán:
文 如 超 适 無 前 暵
詩 到 從 綏 失 盛 唐
I. Bốn nhân vật văn học nổi tiếng giữa thế kỷ 19
1.1. Bồ chữ: Tiếng “bồ” trong giai thoại về
Cao Bá Quát, là ngôn từ dân dã - Người nông dân dùng cái bồ để chứa lúa. Đã là
giai thoại thì làm sao tránh khỏi tính cách nửa đùa, nửa thực. Nho sinh, kẻ sĩ,
sĩ phu “đựng chữ” ở trong cân não, trong bụng dạ. Nhà nông có lúa gạo, người học
thức có chữ, giàu chữ thì phải có “bịt”, có bồ để đựng, để chứa.
Cao Bá Quát (1809 - 1854) được người đời
tôn gọi là “Thánh Quát” vì là thần đồng, thiên tài về văn chương thi phú đương
thời. Bạn chí thân của ông là Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) với tuổi
tác chênh lệch nhau khác nào tuổi đời cách biệt giữa Nguyễn Du (1766 - 1820) với
bạn tri âm Phạm Quý Thích (1760 - 1825) vậy.
Thời Tiền Hán dài trên hai trăm năm, kể từ
năm 206 trước Tây Lịch đến năm thứ 8 sau Công nguyên. Vào thời kỳ này văn học
phát triển thịnh đạt và rực rỡ. Tiêu biểu nhất về văn sử là Tư Mã Thiên, ông đã
để lại cho hậu thế một công trình biên soạn lớn lao được chép theo lối kỷ truyện,
chớ không theo lối biên niên.
Năm Minh mạng thứ 12, 1831 Cao Bá Quát thi
Hương tại trường thi Thăng Long đỗ Á nguyên trong danh sách 20 thí sinh được chấm
đậu lấy Cử nhân. Không hiểu vì lý do gì khiến 6 tháng sau có lệnh chấm lại các
quyển thi của ông rồi xếp đậu cuối bảng. Xưa, có lệ thí sinh đỗ đội bảng phải
bưng khay đựng áo mão cho những tân khoa đỗ thứ bậc bên trên từ thứ 1 đến 19.
Vinh đi liền sau với nhục; Cao Bá Quát hận đời chẳng đẹp. Ông cũng nổi tiếng
thêm vì đã nén lòng “chịu nhục” do thi cử bất minh.
Thơ văn họ Cao đã dậy sóng từ những trước
năm 1831 được thế gian phong là thần đồng. Tuy đỗ đạt nhưng Cao Bá Quát chưa chịu
ra làm quan. Rồi cảnh ngộ gieo neo, vợ chết sớm để lại 2 con. Năm 1841, triều
đình lục dụng người tài ẩn dật, ông bị tiến cử về Kinh đô Huế nhậm chức Hành Tẩu
bộ Lễ. Vào thời điểm ấy, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã làm quan tại Viện Hàn
lâm và Viện Tập Hiền. Văn tài của đôi bạn lại dậy sóng ở đất thần kinh: “Văn
như Siêu Quát vô Tiền Hán”.
Lúc Cao Bá Quát giữ chức Chủ sự bộ Lễ, sau
điện Cần Chánh mới đắp một hòn non bộ để dựng trong bể cạn, vua Tự Đức sai Nguyễn
Văn Siêu đề câu đối. Ông Siêu ngẫm nghĩ mấy hôm chưa ý tứ để đề cho hay, nhân gặp
ông Quát đến chơi, ông Siêu lấy tình thân mới thành thực ngỏ ý với bạn quý. Ông
Quát liền viết ngay lên giấy, rồi đọc cho bạn nghe:
Sơn nhược hữu thần hô Hán tuế,
Hải như sinh thánh thiếp Chu ba(1)
Dịch là:
Núi có thần linh thì hớn hở chúc mừng vua
Hán
Biển như sinh thánh thì im lặng sóng gió
nhà Chu.
Các quan trong triều ngoài quận đều lăn phục
là tuyệt hay: Thơ Thánh!
Sách Đại Nam Chính Biên Liệt truyện có đoạn
về thi tài của “thánh Quát” như sau:
“Cao Bá Quát, người huyện Gia Lâm tỉnh Bắc
Ninh, cùng với anh là Bá Đạt đẻ sinh đôi nên đặt tên như thế, nhỏ kháu khỉnh
thông minh đều có văn tài, Quát sau làm nhà ở trong thành Đại La tỉnh Hà Nội.
Minh Mạng năm thứ 12 (1831) về khoa thi Hương đỗ Á nguyên, khi bộ duyệt đánh
vào hạng chưa được Á nguyên mà thi Tiến sĩ thường bị hỏng. Bá Quát tức giận
ngày thêm dùi mài, văn càng mạnh, cùng với Phó bảng huyện Thọ Xương là Phương
Đình Nguyễn Văn Siêu đều nổi tiếng. Bấy giờ nhiều người hâm mộ có câu: “Văn như
Siêu Quát vô Tiền Hán”, nghĩa là “Văn của Siêu - Quát vượt cả danh nho đời Tiền
Hán”.(2)
1.2. Thi ông Tùng Thiện và Thi bá Tuy Lý:
Tiểu sử của nhân vật lịch sử trở thành một nhánh của sử, đó là Truyện. Cứ theo
điển lệ, hoàng tử đến tuổi trưởng thành có thực tài, bước đầu lập công, nhân
cách đạo hạnh phải trải qua kỳ thi khảo hạch để được phong tước “Công”. Rồi
theo đà tiến và thời gian mới được tôn phong Quận Vương, và truy phong hoặc tiến
phong. Thông thường tước Vương là tột trần để truy phong sau khi đã mất.
Năm Minh Mạng thứ 16, 1836 Hoàng tử thứ 10
là Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819 - 1870) được nhà vua tấn phong Tùng Thiện Công.
Tùng Thiện là tên một huyện ở Bắc Hà, cho mở phủ ở phường Liêm Năng trong Hoàng
Thành(3). Bốn năm sau, Hoàng tử thứ 11 là Nguyễn Phúc Miên Trinh (1819 - 1897)
được tấn phong làm Tuy Lý Công. Tuy Lý tên một huyện ở tỉnh Phú Yên.
Tại hai phủ gần bên nhau của hai anh em
Tùng - Tuy, thi ông và thi bá đương thời thỏa lòng xướng họa, vui hưởng thơ phú
cùng với sĩ phu trong triều ngoài quận. Và từ đó là cái gốc, cái nôi cho Tùng
Vân thi xã ra đời mà Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát cùng tham dự để gây sốc
phát sinh ra nhiều giai thoại kỳ thú.
Đại Nam Chính Biên Liệt truyện đã viết phẩm
cách của hai hoàng tử:
“Ông [Tùng Thiện Công] thông minh ham học,
ngoài sách vở ra không thích gì. Nghe có sách hay, bỏ tiền ra mua. Học vấn sâu
rộng; lời ý điển nhã, càng giỏi về thơ. Cùng hoàng tử thứ 11 là Tuy Lý Vương đều
nổi tiếng bằng nhau. Dực Tôn Anh Hoàng đế vốn tin yêu, thường thường sai biên
chép thơ chọn lọc của các đời, chấm và phê bình để tiến lên. Cho nên người làm
thơ có câu: “Thơ đến ông Tùng, ông Tuy hơn cả đời Thịnh Đường”(4).
Nhân dịp lễ húy kỵ và kỷ niệm 100 năm ngày
mất của Tùng Thiện Vương (30/3/1870) năm 1970 các tác giả Ưng Trình và con trai
trưởng là giáo sư Bửu Dưỡng đã cho ra mắt độc giả sách “TÙNG THIỆN VƯƠNG” (1819
- 1870)(5). Hai soạn giả đã khẳng định một cách quả quyết hai câu thơ bất hủ được
lưu truyền nói trên không phải do vua Tự Đức sáng tác. Vì sao? Trong toàn bộ
thi văn của nhà vua không hề ghi chép hai câu thơ ấy.
Nhà báo Phan Khôi (1887 - 1959), tác giả
sách Chương dân thi thoại xuất bản năm 1936 thì chưa phân định rõ vua Thiệu Trị
hay vua Tự Đức là tác giả.
“Tùng Thiện Vương, tên là Miên Thẩm, tự là
Thận Minh, con trai thứ mười vua Minh Mạng, người Huế quen gọi ngài Tùng, hay
là Thương Sơn (Thương Sơn là biệt hiệu ngài), có tiếng hay chữ nhất trong thời ấy,
mà sở trường về nghề làm thơ. Có em là Tuy Lý Vương cũng học rộng và hay thơ, nổi
tiếng ngang nhau, tục truyền vua Thiệu Trị hay vua Tự Đức chi đó có câu thơ rằng:
“Thi đáo Tùng Tuy thất thạnh Đường”, là chỉ hai ngài đó”.(6)
Mộ Tùng Thiện Vương (ở Huế). Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên
1.3. Những ai đã khẳng định vua Tự Đức là
tác giả 2 câu thơ ấy
Từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay nhiều nhân sĩ
trí thức có tiếng, chuyên tâm nghiên cứu văn học cổ Việt Nam đều khẳng định tác
giả hai câu thơ đã dẫn thượng là đích thị vua Tự Đức. Rất tiếc là chỉ dừng lại
và không phân tích hoặc chú giải thêm.
1.3.1. Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề dày
công viết sách Việt Nam ca trù biên khảo xuất bản năm Nhâm Dần, 1962 viết:
“Ông [Cao Bá Quát] tài hoa mẫn tiệp, xuất
khẩu thành chương, áp đảo được mọi người. Vua Tự Đức đã khen:
“VĂN NHƯ SIÊU QUÁT VÔ TIỀN HÁN
文 如 超 适 無 前 暵
THI ĐÁO TÙNG TUY THẤT THỊNH ĐƯỜNG
詩 到 從 綏 失 盛 唐(7)
Hồng Liên Lê Xuân Giáo dịch rõ và thanh
thoát:
Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thời
Tiền Hán phải thua
Thơ như Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương
thời Thịnh Đường còn kém.(8)
Thời Thịnh Đường văn chương Trung Quốc thịnh
đạt và rực rỡ, tiêu biểu là thơ Tiên, thơ Thánh của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Trăm hoa
đua nở, thể thức thơ Đường đã đi vào quy chuẩn mẫu mực. Thời kỳ này là hoàng
kim thời đại, trải qua trên 110 năm, từ năm 713 đến 823 sau Tây lịch. Thời Thịnh
Đường, các văn nhân và thi hào gây ra phong trào phục hồi văn học thành thực và
mạnh mẽ của triều nhà Hán.
1.3.2. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương vận dụng hết
tài năng viết bài diễn thuyết sáng giá có tựa đề Một niềm tin nhân dịp kỷ niệm
ngày giỗ thứ 149 của Đại thi hào Nguyễn Du. Bài diễn thuyết có đoạn viết gây ấn
tượng:
“…Mà xét kỹ thì con người được dân chúng Bắc
Hà kính phục tài văn chương đến xưng tụng là Thánh Quát, con người ấy đã đậu Á
nguyên năm Minh Mạng thứ 12 rồi 6 tháng sau lại bị các quan Đại thần ở Đế đô
mang bài thi ra tái duyệt để vin vào những lý luận viển vông hạ tuột cái địa vị
Á nguyên xuống tận hàng Cử nhân đội bảng. Thật là một điều hy hữu trong lịch sử
thi cử nước nhà. Mặc dầu vua Tự Đức có ý định giàn hòa cả Đàng Ngoài, Đàng
Trong bằng 2 câu ngự bút:
“Văn Như Siêu, Quát Vô Tiền Hán
Thi Đáo Tùng, Tuy Thất Thịnh Đường”(9)
1.3.3. Hồng Liên Lê Xuân Giáo viết bài khảo
cứu về Cái chết bi hùng của Thánh Quát. Tác giả nói về thiên tài của Cao Bá
Quát như sau:
“Từ đây [năm 1831], tiếng tăm hay chữ của
vị Á nguyên họ Cao đã được loan truyền khắp đất Bắc Hà, và còn vang dội vào tận
chốn Thần kinh nữa.
Những bậc văn nhân mặc khách trong nước,
không mấy ai không nghe tiếng “Thánh Quát”, và không mấy ai mà không đối thoại
với “Thánh Quát”…
Về văn tài, Quát ngang hàng với Nguyễn Văn
Siêu (biệt hiệu Phương Đình, đỗ phó bảng, quê thôn Dũng Thọ, huyện Thọ Xương,
Hà Nội), nên Dực Tông Anh Hoàng Đế mới có hai câu thơ: “Văn Như Siêu Quát Vô Tiền
Hán/ Thi Đáo Tùng Tuy Thất Thịnh Đường”.(10)
II. CỘI NGUỒN LÀM ĐÀ SÁNG TẠO CHO HAI CÂU THƠ THỜI
DANH ẤY
Viết Truyện hoặc Liệt truyện thì phải vận
dụng thể tài văn học nhằm thuật lại gốc ngọn trước sau của một người, từng nhân
vật. Trong 4 nhân vật thì họ Cao gây nhiều ấn tượng nhất đối với độc giả. Nắm vững
được tầm tinh của nhân vật “mắt đinh” này thì sẽ hiểu sức thâm nhập của Tam
giáo đồng nguyên của Cao Bá Quát không bằng 3 nhân vật còn lại.
Cao Bá Quát là con trai của ông Đồ hay chữ
Cao Cửu Chiếu bằng trang tuổi của Nguyễn Du. Thân phụ của “thánh Quát” đã từng
nhận xét về hai người con trai sinh đôi rằng: “Văn của Bá Quát thì trỗi về tài
tử, nhưng thua về khuôn phép. Nếu đem cái tài tử của Bá Quát hợp với cái quy cũ
của Bá Đạt sẽ có thể trở nên một văn tài hoàn toàn”(11). Tiếc thay! Cao Bá Quát
không thấm sâu lời nghiêm phụ đã dạy.
2.1. Về hai dòng tộc họ Nguyễn và họ Cao của
Nguyễn Du và Cao Bá Quát có nhiều nét tương đồng. Hai dòng tộc này đều là thuộc
hàng danh gia thế phiệt. Các bậc tiên hiền tiền bối đều đỗ đạt cao, làm quan lớn
tới chức Tể tướng, Thượng thư dưới các thời nhà Hậu Lê và Lê Trung Hưng. Quan
điểm phò Lê, hoài Lê khá sâu đậm nét trong cân não, dòng máu của sĩ phu, danh
sĩ Bắc Hà đương thời. Vậy mà sau khi đất nước đại định, giang san thu về một mối,
vua Gia Long đã đổi tên gọi Bắc Hà ra Bắc Thành. Từ Thanh Hóa ngoại (tức Ninh
Bình bấy giờ) trở ra gọi là Bắc Thành gồm 11 trấn. Cố đô Thăng Long được đổi chữ
viết “Long” (con rồng) thành tiếng đồng âm “Long” của niên hiệu Gia Long.
2.2. Nguyễn Du và Cao Bá Quát có hai tánh
khí khác nhau. Sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện cho biết: “Du là người ngạo
nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến sợ hãi như không
nói được…”(12)
Nguyễn Du ngạo nghễ tự phụ theo ảnh hưởng
của mạch đất, của chất Bắc Hà - Nghệ Tĩnh. Đọc tiểu sử của ông thì dễ dàng thấy
rõ nhược điểm này.
Nguyễn Du khôn khéo gởi gắm nguồn cơn tâm
sự rõ nét qua Truyện Kiều. Khí phách của Từ Hải đã nói thay cho ông… Nguyễn
Bách Khoa đã viết trong sách Nguyễn Du và Truyện Kiều, xuất bản lần thứ hai năm
1951 khá nhiều. Tiêu biểu trích dẫn một câu:
“Từ Hải và cuộc đời ngang dọc của Từ Hải
chỉ là giấc mộng đẹp thân yêu của mình mà sức bố đáp Cần vương đã tàn theo một
đẳng cấp tàn”.(13)
Đường làm quan với tân triều của Nguyễn Du
khiên cưỡng. Vẫn còn như ẩn dấu ấp ủ “cái gì” chưa nói hết ra được “một cách trực
diện”. Đã có 3 lần Nguyễn Du xin nghỉ về vui thú điền viên: năm 1805 đang làm
quan phủ huyện, cụ xin cáo bệnh về quê. Năm 1812 lại xin cáo bệnh xin từ quan,
sau năm 1813 đi sứ về cụ lại vin cớ xin nghỉ 6 tháng.
Còn Cao Bá Quát thì xuất thân làm quan buổi
đầu khiên cưỡng. Rồi nhập thế cũng lắm truân chuyên chỉ vì có tài, thị người
cho nên trước sau cũng bị “đẩy hất” đi ra cho “khuất con mắt” người ta ở chốn
triều đình được vua Thiệu Trị đặt tên đất thần kinh. Thôi thì “hất lên” cho ông
Cao Bá Quát “ra riêng một cõi” ở phương trời hiu hắt đèo heo hút gió. Họ Cao tự
phụ, kiêu hãnh cho xuất thân là thần đồng, thơ thánh. Cái ma men của rượu nồng
đã góp phần báo hại khiến đời ông tan tác như “cuồng sĩ”. Tuổi trẻ mà tài cao
là điều không hay! “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Cổ thi đã từng nói lên
điều ấy bằng câu: “Trí tuệ thông minh khước thụ bần”.
Ở nhiệm sở mới, giáo thụ phủ Quốc Oai tỉnh
Sơn Tây, Cao Bá Quát nhân dịp đầu xuân làm thơ khai bút, có hai câu tả chân:
Hốt hốt bút niêm thành vạn tự.
Thao thao bút hạ tảo thiên quân.
忽忽 筆 拈 成 萬 字
滔滔 筆 下 掃 千 軍
Hồng Liên Lê Xuân Giáo dịch là:
Lập tức cầm tay, thành vạn chữ
Thao thao tay hạ, quét sạch ngàn
quân”(14).
Rồi, ông chán ngán sự đời, từ quan ra về,
rồi cùng với Nguyễn Kim Thanh phò tá Lê Duy Cự là con cháu nhà Lê khởi nghĩa.
Cao Bá Quát bị bắt đưa về làng Phú Thị xử
tử. Hai con trai là Cao Bá Thông và Cao Bá Phùng đều bị chết. Quốc sử không
chép như thế mà lại nói ông chết trận! Bị trúng đạn!
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã có phần luận lý
liên quan đến đời văn, đời thơ của Nguyễn Du, của Cao Bá Quát:
“Cho nên thi hào Nguyễn Du đã phải dùng
VĂN, lấy áng “thiên thu tuyệt diệu từ”(15) để Hóa-giải mọi đắng cay ngấm ngầm,
hàn gắn mọi vết thương tận đáy lòng, nhổ bật lên mọi chiếc gai tự tôn cũng như
tự ti mặc cảm, mong chặn đứng lại mầm kỳ thị chia rẽ tranh giành…
Nhìn lại khoảng thời gian từ 1820 đến nay,
nhiều vị hẳn lắc đầu nghi hoặc: cái ước vọng HÓA-GIẢI của tiên sinh đã đạt được
gì cụ thể đâu! Này nhé. Vua Minh Mạng vừa lên ngôi được 6 năm, rồi đến đời vua
Tự Đức lại có lần quật khởi thứ hai ở Sơn Tây, Bắc Ninh, thực lực và thanh thế
đều đáng lo ngại hơn gấp bội. Chính bậc kỳ tài Cao Bá Quát đã gia nhập “loạn đảng”
và bị kết tội “phản thần”, cả nhà cả họ mắc vạ lây, máu lê tràn ngập trên pháp
trường rồi cô đọng lại nơi vân điểu”.(16)
Giữa “đời” và “truyện” như hé mở ra hai trục
đường, đôi ngả. Ai hiểu sao thì hiểu. Cao Bá Quát có “cách làm” của ông. Kế thế
thế giới quan của người đi trước là Nguyễn Du. Ở thời đẳng cấp Cần Vương hoài cổ
sắp đã tàn… Cho nên phải “chịu trận” mà Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã nói là:
“… cõi trần lưu xấu mà cũng lưu thơm”.
Sau khi Nguyễn Du thọ bệnh và mất, bạn
thân là tiến sĩ Phạm Quý Thích hoàn thành bản khắc in Truyện Kiều. Vua Minh Mạng
ngự lãm và đổi tên thành tên mới Đoạn trường tân thanh. Không rõ Hoàng thượng
có nhuận sắc và châu phê gì thêm không. Về sau, vua Thiệu Trị cũng giận lây.
Chính vua Tự Đức lại càng tỏ ý giận dữ hơn khi hay tin khẩn báo về triều việc
Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa phò Lê. Họ Cao làm giặc, là nghịch thần phải chịu
cái án “tru di tam tộc”. Vua Tự Đức duyệt lại Truyện Kiều. Từ đó hình thành 2 bản:
bản kinh và bản phường…
Và từ đó, sử sách cũng đã chép lệch đi tác
giả của 2 câu thơ bất hủ ấy là của người đời, của người làm thơ đương thời! Và
sự thật như thế nào thì chỉ có trời biết, dân gian biết. Giữa “chuyện” và “truyện”
đã có sai lệch tạo thành “nghi án” văn học và khuyết nghi của lịch sử thời cận
đại.
Xưa nay, từ cổ chí kim nếu một tiểu phẩm,
một danh phẩm nào được cho là có nhiều tác giả khác nhau thì lại càng được nâng
cấp giá trị, lại càng được thế gian lưu truyền nhanh chóng và rộng rãi chỉ vì
“miệng thế gian như có gang có thép”.
*
Cổ học tinh hoa của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
có chép chuyện vua nước Sở mất gươm. Nhà vua và triều thần sai quân lính và các
quan thừa hành bên dưới đi tìm gươm. Có quan tâu lên Hoàng đế rằng: “Vua nước Sở
mất gươm báu thì dân nước Sở được, chớ sức mô mà tốn công, tốn của, sức lực của
thần dân đi tìm”. Vua mất, dân được. Vua cũng là dân nước, giao cho dân giữ thì
còn và lại bền vững hơn. Mạnh Tử nói: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh”.
Tích xưa, việc cũ nó như thế đấy! Ai hiểu
sao thì hiểu. Tùy duyên.
DÂN TRÍ
---------------
1. Nguyên tác bằng chữ Hán:
山 若 有 神 呼 漢 歲
海 如 生 聖 帖 周 波
2. Đại Nam Chính Biên Liệt truyện, tập 3, quyển 46, Mục
II, Quốc sử quán, viện Sử học dịch, Nxb. Thuận Hóa Huế, 1993, tr.511.
3. Phía sau Tam tòa cũ, đường Đinh Công Tráng. Về sau
dời về làng An Cựu và làng Vỹ Dạ.
4. Đại Nam Chính Biên Liệt truyện, tập 2, quyển 5, Mục
I, Quốc sử quán, viện Sử học dịch, Nxb. Thuận Hóa Huế, 1993, tr.104.
5. Tùng Thiện Vương (1819 - 1870), Ưng Trình và Bửu Dưỡng,
Nxb. Sao Mai, Sài Gòn, 1970, tr.72.
6. Chương dân thi thoại, Phan Khôi, Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr.90.
Tái bản theo bản in năm 1936.
7. Việt Nam ca trù biên khảo, Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng
Huề, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tái bản, 1994, tr.635 - 636. Bản đầu tiên in
năm 1962 do Đại học Vạn Hạnh phát hành.
8. Văn hóa tập san, số 3, 1973, bài “Cái chết bi hùng
của Thánh Quát”, Lê Xuân Giáo, Nxb. Nha Văn hóa, bộ QGGD và TN, Sài Gòn, 1973,
tr. 72. Ông Giáo là học trò Tiến sĩ Nguyễn Mai (mất năm 1954) cháu của Nguyễn
Du.
9. Văn hóa tập san, số 2 - 3 (năm 1969), bài “Một niềm
tin”, Vũ Hoàng Chương, Nxb. Nha Văn hóa, phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn Hóa,
Sài Gòn, 1969, tr.31. Đây là bài diễn thuyết sáng giá nhân kỷ niệm 149 năm ngày
mất của Nguyễn Du.
10. Văn hóa tập san, Số 3, 1973, Sđd, bài đã dẫn,
tr.70 - 71.
11. Văn hóa tập san, Số 3, 1973, Sđd, tr.68.
12. Đại Nam Chính Biên Liệt truyện, tập 4, quyển 20,
Truyện các quan, Mục XVII. Quốc sử quán, viện Sử học dịch, Nxb. Thuận Hóa Huế,
1993, tr.335 - 336.
13. Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nguyễn Bách Khoa, Nxb.
Thế giới, Hà Nội, 1951, tr.123.
14. Văn hóa tập san, Số 3, 1973, Sđd, bài đã dẫn,
tr.76.
15. Áng “thiên thu tuyệt diệu từ” hàm ý chỉ Truyện Kiều.
Cụ Tú tài Phan Thạch Sơ có thơ đề Kiều như sau:
Hữu minh nhất đại vô song kỹ
Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ
Nguyễn Bách Khoa trong tác phẩm Nguyễn Du và Truyện Kiều
dịch:
Cô đĩ không hai ở trong đời nhà Hữu Minh
Lời văn rất hay để lại nghìn năm nước Đại Việt
16. Văn hóa tập san, Số 2 - 3, 1969, Sđd, tr.76.
Nhận xét
Đăng nhận xét