Bài 4: NHỮNG TRÁI “DA LÁNG” ĐÁNG SỢ CỦA… THẦN CHẾT
Bài
4
NHỮNG TRÁI “DA LÁNG” ĐÁNG SỢ
CỦA… THẦN CHẾT
CỦA… THẦN CHẾT
Cuối tháng 2
năm 1979, Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 (thiếu) của Sư đoàn 9 bộ binh cùng các đại
đội pháo 105mm của Trung đoàn 42, đánh vào ga Romea tỉnh Kampong Ch’nang.
Bộ
đội Việt Nam dẫn giải tù binh Polpot. Ảnh tư liệu.
Cuộc
chiến không tù binh
Romea tuy là
một ga xép nhưng có vị trí đầu cầu rất quan trọng, là cửa ngõ hướng đông bắc
vào thủ đô kháng chiến Amleang, nơi chính phủ Kh’mer Đỏ chọn làm căn cứ địa.
Khu vực này
do các lực lượng quân khu Tây Nam thiện chiến của Tà Mok chốt giữ. Đường 146
vào Amleang bị án ngữ bởi hai ngọn núi thấp là cao điểm 96 và cao điểm 86. Đôi
ngọn núi như hai cánh cửa khép chặt bởi các lớp phòng ngự chiều sâu. Sau gần
chục ngày giao tranh, các đơn vị tấn công chưa dứt điểm được và gần như bị bao
vây tại đây.
Tiểu đoàn 4
Trung đoàn 2 chúng tôi đang chốt bên kia sông Tonle Sap, được lệnh thọc vào
giải vây, thông đường 27 để tiếp tế hậu cần đạn dược, chuyển tử sỹ ra ngoài thị
xã. Đang là cuối mùa khô với những ngày nắng rát.
Đồng hoang và
những bụi cây nhỏ khô cháy lan đến tận chân rừng mờ mịt khói. Xe quân nhu thảy
xuống cho tiểu đoàn bộ thùng lựu đạn M.67 cuối cùng.
Những trái da
láng nằm trong hộp giấy mới khui màu ô liu sẫm, còn hắc thơm mùi sơn bảo quản.
Chứng chỉ xác
quyết sinh tử cưa đôi trong cuộc chiến tranh không có tù binh (*) đã được cấp
phát, như sự khẳng định mức độ cận chiến ác liệt có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Đây là lần
thứ hai hậu cần trung đoàn cấp lựu đạn. Lần thứ nhất tôi nhớ rõ là chiều ngày
mùng 3/1/1979, sau khi Tiểu đoàn 6 đánh toang cửa mở cầu Tonle với rất nhiều
thương vong, và tiểu đoàn tôi lên thay máu, đi đầu trong mũi chủ công tiến dọc
lộ 1 vào Ph’nom Penh.
Trái da láng
đó tôi đã ném cá bên bờ sông Bốn mặt bởi nghĩ Ph'nom Penh đã được giải phóng,
chiến tranh đã kết thúc, chẳng cần dùng đến nó nữa.
Nhưng tôi đã
lầm. Lần này trái da láng lại đến đằm tay, như một lời nhắc lạnh lùng rằng
chiến tranh sẽ còn triền miên kéo dài.
Tôi xoáy mở
cụm mỏ vịt kiểm tra cẩn thận: Kíp nhôm hai ngõng chấm xanh, loại an toàn 6
giây.
Ga
Romea tỉnh Kampong Ch’nang nơi đã từng là chiến trường ác liệt giữa Quân tình
nguyện Việt Nam và lính Polpot. Ảnh: Trung Sỹ.
Tội
ác tày trời của lính Pol Pot...
Anh em đơn vị
từng nghe chuyện cả một phân đội trinh sát sư đoàn bạn luồn sâu trận Oudong, bị
địch phục kích bắt sống. Bọn lính Polpot dã man dùng cuốc đập chết từng người
rồi đốt xác.
Tiểu đoàn 5
đánh vào giải vây, thấy cảnh đó chỉ biết hộc lên nghiến răng căm hận. Ngay
thằng bạn học cùng ngày nhỏ nhà bên phố Hàng Lược, là lính Tiểu đoàn 6 trung
đoàn tôi cũng bị địch bắt sống, chặt bêu đầu trên cọc. Tất cả chỉ vì không có
hoặc không kịp rút chốt trái đắng cuối đời.
Giờ thì trái
đắng, hay gọi là trái hạnh phúc cũng được, đã mát lạnh trên tay như một đảm bảo
cho sự giải thoát tức thời không đau đớn, và nếu biết đâu trong hoàn cảnh đó
nếu may mắn còn gọi hồn thêm được một vài thằng lính Polpot diệt chủng.
Trái mãng cầu
của thần Chết vo tròn số phận chia đều cho cả hai bên. Tôi từng biết có những
đứa trẻ con áo đen mới hơn chục tuổi đã biết cầm súng, khi bị thương nặng không
chạy được, vẫn thủ trái M.67 tức thì dưới bụng, đợi chúng tôi đến là mỏ vịt lập
tức buông tay.
Các toán địch
nhỏ bu bám theo từng bước hành quân trên dọc dài 28 km từ thị xã Kampong
Ch’nang vào tới ga Romea. Mới ra khỏi trái núi rìa phía tây thị xã đã đụng
địch. Súng nổ liên hồi như bắp rang, bắn vào đoàn quân đang càn tới.
Tiểu đoàn 4
đánh rẽ địch ra hai bên, vừa đi vừa đánh, hộ tống đoàn xe hậu cần tiến vào. Mùi
tử khí nồng nặc bao trùm ngôi trường, nơi trung đoàn để tạm anh em hy sinh
trong các lớp học.
Ngôi
trường học khi xưa từng xếp tử sỹ Quân tình nguyện Việt Nam hy sinh.
Quanh hai
chiếc xe chở thi hài đồng đội mới được xếp lên trong sân trường để chuyển ra
ngoài thị xã, ruồi bay vu vu như những đám mây. Đội vận tải phải chặt cành cây
phủ kín thành xe để chống ruồi.
Tôi được lệnh
đi máy với đại đội 4, đại đội hỏa lực của tiểu đoàn. Đóng cọc mắc mùng trên
ruộng khô, trải nilon nằm cạnh anh Ninh C phó xong mắt tôi díp lại ngay. Đạn
địch điếc tai, át cả tiếng chuông máy Mỹ kêu cồng cộc.
Lính thê đội
2 ngày mai tấn công, được nằm giữa nên không phải gác. Không có cây mắc võng,
lính giăng mùng trắng ruộng. Dưới ánh trăng trung tuần tháng Hai, những chiếc
mùng xô trắng tinh lớp lớp, trông ghê như vải liệm.
Một người
lính đi tìm đồng hương về ngủ muộn, lấy trái lựu chày Trung Quốc đóng cọc giăng
mùng. Đất cứng, trái lựu chày phát nổ trên tay. Quân y vận tải hò hét gọi nhau
om sòm. Trái lựu đạn chia cả cho quân ta.
May nó chỉ là
trái lựu đạn chày Trung Quốc nên sức sát thương kém. Đêm ấy mặt trăng sáng
trắng, rọi thẳng vào mặt anh lính có thói quen nằm ngửa. Tôi phải lấy cái quần
đùi phủ lên đỉnh mùng che trăng cho tối đi, mãi mới ngủ được.
Thêm quân
thêm đạn, pháo đội 105mm trung đoàn 42 lại quất không thương tiếc lên cao điểm
96, nơi địch đặt khẩu cao xạ hai nòng 37mm, hạ nòng bắn tà âm xuống đầu chúng
tôi. Pháo thủ cởi trần lao đạn vã mồ hôi hột, vừa kỵ ghét trên cổ vừa giật cò.
Chiều hôm sau, cao điểm này thất thủ.
Chúng tôi thu
được hai khẩu pháo 105mm của địch. Thu nốt cả khẩu cao xạ 37mm vừa bắn khùng
khùng vào đội hình chúng tôi đêm hôm qua cùng chiếc xe Hoàng hà kéo pháo. Đường
vào thủ đô kháng chiến Amleang của chính phủ Kh’mer Đỏ ở phía đông bắc đã mở
toang. Các sư đoàn bộ binh bắt đầu đánh thọc vào.
Thêm một lần
nữa, thủ đô mới của địch thất thủ nhưng chiến tranh vẫn chưa chấm dứt. Hàng tháng
trời sau, sư đoàn 9 cùng các đơn vị bạn càn đi quét lại vùng sâu trong núi
Aoral, diệt tàn quân địch và đưa dân chúng lùa theo ra đồng bằng trở về quê cũ.
Một
trái da láng M.67
...
và trái da láng cuối cùng
Tình hình yên
ả dần, cơ hội cưa đôi sinh tử dường như không còn nên trái lựu đạn mang theo
luôn nhấp nhổm muốn rút chốt mỗi khi gặp một nguồn nước nhiều cá. Cuối cùng, nó
đã được thảy xuống cái đập nước gần thị trấn Ponley, nơi đàn cá lóc bông quần
tụ.
Các anh em
lính rừng tiểu đoàn tôi kham khổ suốt mấy tháng đuổi địch mùa khô, hôm đó được
bữa canh chua lá giang cá lóc nhớ đời.
Rồi tôi cũng
kiếm được một trái da láng M.67 khác phòng thân. Trái lựu đạn này hẳn đã qua
tay nhiều người nên lớp sơn ngoài đã tróc hết. Lớp vỏ thép cọ mồ hôi nhiều sáng
bóng, chạm lạnh nhói bụng những đêm sâu gác ca cuối mùa khô.
Tôi được rút
lên ban Chính trị trung đoàn nhưng vẫn giữ trái da láng như một thói quen, nghĩ
nếu may không có cơ hội phải dùng nó thì khi giải ngũ mang về nhà ném cá.
Ngày tôi nhận
quyết định giải ngũ, xe đưa những người lính hoàn thành nghĩa vụ về đến ngã ba
Sê Kun thì nghỉ lại giữa đường. Đêm cuối cùng trên đất Campuchia, trái da láng
thêm một lần lạnh cóng nằm trên bụng giữa chợ hậu phương khi nghe tiếng 12,8mm
quét qua từng tràng khá gần.
Quân
tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, phối hợp với LLVT Mặt
trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng tiến công giải phóng thủ
đô Phnôm Pênh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Campuchia (17-1-1979).
Nhọc mệt thế
nhưng không ngủ được, hai mắt thức chong chong. Lại lật võng, nhìn lên thăm
thẳm một trời sao trôi chậm. Vòm đêm sâu hun hút. Sao Gầu Sòng lộn ngược, đang
úp thìa lên ngọn thốt nốt đen sẫm đằng xa. Bao đêm gác địch mù mắt vẫn gà gật
ngủ gục được, nhưng đêm ấy sao khó ngủ quá!
Chiều tối hôm
sau, chúng tôi thở phào khi xe sắp vượt qua biên giới về tới đất quê hương.
Trái da láng tróc sơn vẫn giắt giấu, lạnh trong thắt lưng. Chợt nghĩ mình chưa
vặn ra kiểm tra xem trái này là loại tức thì hay delay.
Đồn biên
phòng kia rồi, quê mẹ quê cha đây rồi, còn tính cưa đôi với ai nữa đây? Thôi,
giã từ vũ khí!
Tôi quăng
trái da láng vào một bụi rậm ven đường.
TRUNG SỸ
Xuân
Tùng (bút danh Trung Sỹ) - Nguyên trung sỹ D4E2F9, Quân đoàn 4 tham gia Chiến
tranh Biên giới Tây Nam bảo vệ Tổ quốc và là Quân tình nguyện Việt Nam ở
Campuchia, tác giả cuốn Hồi ức Chuyện lính Tây Nam, NXB Thanh Niên.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(*)
Nguyên trung đoàn trưởng Trung đoàn 812 (Sư đoàn 309 - Mặt trận 479) Nguyễn Hữu
Bằng nói rằng ông đọc và biết về nhiều cuộc chiến tranh trên thế giới. Tuy
nhiên, chưa có cuộc chiến nào như cuộc chiến này: Không có tù binh nào của Việt
Nam được phía Pol Pot trao trả. Trong khi đó, ta bắt hàng ngàn tù binh và đối
xử rất nhân đạo, cho họ về làm dân, cấp ruộng cho họ cày cấy. Chỉ một khía cạnh
ấy thôi, đủ hiểu chế độ diệt chủng của Pol Pot khủng khiếp như thế nào.
(Theo
Người Lao động)
Nhận xét
Đăng nhận xét