Kỷ 97 - NHÀ MINH GIẤU LƯỠI GƯƠM HIỂM ÁC, NHÀ TRẦN DÙNG KẾ TẰM ĂN DÂU
Kỷ 97
NHÀ MINH GIẤU LƯỠI GƯƠM HIỂM ÁC
NHÀ TRẦN DÙNG KẾ TẰM ĂN DÂU
Đầu năm 1411, vua nước Minh ra một số chính sách mang tính chất chiêu
an và dùng chức tước mua chuộc vua tôi nhà Hậu Trần. Điều đó xuất phát từ hoàn
cảnh khó khăn của nước Minh. Ở phương bắc chiến tranh lớn với Bắc Nguyên đòi hỏi
Chu Đệ phải tập trung phần binh lực lớn về hướng bắc. Phương nam vì thế trở nên
mỏng yếu, nền đô hộ ở Đại Việt của Minh triều trở nên lung lay. Tóm lại, việc
giảng hòa của vua Minh chỉ là một bước đi tình thế. Đi cùng với đó là việc củng
cố bộ máy ngụy quyền trên đất nước ta, chứng minh rằng quyết tâm đô hộ, đồng
hóa nhân dân Đại Việt của bạo chúa Chu Đệ vẫn không thay đổi.
Trước sự phản kháng mạnh mẽ của quân dân Việt, người Minh liên tiếp tổn
hao nhân mạng và tiền của không hề nhỏ. Sự tổn thất này vượt lên trên tất cả những
nguồn lợi mà giặc Minh thu được từ việc đô hộ nước ta. Điều này đã khiến trong
nội bộ Minh triều xuất hiện những ý kiến bất đồng với chủ trương cố sống cố chết
không chịu trao trả độc lập cho Đại Việt của vua Minh. Tiến sĩ Giải Tấn, người
từng làm Hàn lâm đại học sĩ trong triều đình nước Minh, được cử sang nước ta nhậm
chức Tham nghị. Khi đến nhậm chức, nhận thấy tình hình lòng dân đều tỏ ý phản
kháng, Giải Tấn đã nói thẳng với các quan tướng Minh ở Đông Quan: “Giao Chỉ
chia đặt làm quận huyện không bằng để nguyên như cũ, nên phong tước chia đất
cho các thổ hào để họ cai quản lẫn nhau. Chia đặt quận huyện dẫu có cái được
cũng không bù được những cái mất, cái lợi không chữa được cái hại”.
Lời có Giải Tấn thể hiện cái nhìn sâu sắc, biết mình biết người nhưng rất
tiếc lại nói ra không hợp thời khi mà hầu hết bạn đồng liêu xung quanh ông và cả
vua của ông đều là những con người tham công, hiếu chiến. Từ Đông Quan, các
quan lại đô hộ mật tâu lời của Giải Tấn về cho Kim Lăng. Chu Đệ nghe được, đùng
đùng nổi giận xuống lệnh bắt ngay Giải Tấn dẫn về nước, rồi giao cho Cẩm Y Vệ
giam giữ. Giải Tấn không lâu sau đó bệnh chết trong ngục. Đó là một sự dằn mặt
các ý kiến trái chiều của vua Minh. Sau việc này, văn võ bá quan Minh triều đều
chỉ ngậm tăm mà thi hành những chủ trương bạo ngược, hiếu chiến đối với Đại Việt.
Bên cạnh những sự hoài nghi trong nội bộ Minh triều về cuộc đô hộ, thì
trong hàng ngũ ngụy quan cũng không thiếu những người bất bình. Giáo thụ Lê Cảnh
Tuân, người từng là Giám sinh Quốc tử giám, vì nghe lời dụ dỗ “phù Trần diệt Hồ”
mà từng bước trở thành kẻ tay sai cho giặc. Nay trước những hành động ngang ngược,
bất chấp lý lẽ của quân Minh đã không có kìm nén được, viết một “Vạn ngôn thư”
gởi cho viên Tham nghị Bùi Bá Kỳ, văn ngôn là một bức kiến nghị các sách lược
thượng, trung, hạ sách cho quân Minh, nhưng lồng vào đó các lời khuyên thực thi
những lời hứa của quân Minh năm xưa khi mới tiến quân vào đánh nhà Hồ. Bức thư
đó cũng bị quan lại nước Minh trình tấu về Kim Lăng. Chu Đệ không ngần ngại bắt
giải Lê Cảnh Tuân sang Kim Lăng, cũng giam vào nhà ngục của Cẩm Y Vệ để bịt miệng.
Sau Lê Cảnh Tuân bị giam 5 năm trong ngục, cuối cùng bệnh chết trong đó.
Lúc bấy giờ, Mộc Thạnh và quân tướng nước Minh rất cố gắng phối hợp với
đám ngụy quân, ngụy quan chống trả các đợt tấn công của quân Hậu Trần. Tuy quân
Minh chiến đấu rất hiệu quả, nhưng cũng núng thế dần trước khí thế của quân ta.
Quân Hậu Trần không còn mở những cuộc hành quân lớn nhằm thẳng vào Đông Quan
như trước, mà tổ chức những chiến dịch quy mô nhỏ hòng lấn đất dần. Các châu
huyện thuộc các phủ Kiến Bình, Trấn Man, Tân Yên, Kiến Xương, Phụng Hóa (các
vùng này thuộc các hướng đông bắc, đông nam đồng bằng sông Hồng) dần dần về tay
quân Hậu Trần. Bên cạnh đó, một dải giang sơn từ Thanh Hóa trở vào trở thành
vùng hậu phương vững chắc cho nhà Hậu Trần.
Trong vùng lãnh thổ này, bản sắc Đại Việt vẫn tồn tại và phát triển qua
thời gian. Còn tại các vùng quân Minh chiếm đóng, nhân dân vẫn hết mức trông chờ
được giải phóng khỏi ách đô hộ, dù cho vua Minh đã ra một số chính sách nới lỏng
việc cai trị, hòng thu phục nhân tâm.
Tình hình khách quan thuận lợi cho nhà Hậu Trần không kéo dài lâu, vì
cuộc chiến giữa nước Minh và quân Bắc Nguyên dưới trướng khả hãn Bản Nha Thất
Lý đã định đoạt xong trong năm 1410. Các bộ tộc Bắc Nguyên tuy thiện chiến
nhưng rời rạc về tổ chức. Trong khi liên minh bộ tộc Thát Đát (Tatar) của Bản
Nha Thất Lý kiên quyết chống Minh thì bộ tộc Ngõa Lạt (Oirat) lại chấp nhận hòa
nghị với nước Minh, liên binh tấn công Thát Đát. Bản Nha Thất Lý cuối cùng chống
không nổi trước quân Minh đông đến 50 vạn người dưới quyền tổng chỉ huy của
chính Chu Đệ, lực lượng bị tiêu diệt gần hết. Do đó, quân Minh chiếm ưu thế
hoàn toàn ở phương bắc, lập tức chia quân hướng mũi giáo về nam.
Vua Minh thi hành một chính sách tráo trở hai mặt. Hắn dùng chiêu bài dụ
dỗ, mua chuộc các tầng lớp nhân dân bằng việc giảm nhẹ thuế khóa, tăng bổng lộc
cho ngụy quan, đem chức tước ra để chiêu hồi những lực lượng khởi nghĩa. Nhưng
ngay sau khi tình hình trong nước thuận lợi, một đạo viện binh lớn lập tức được
chuẩn bị tiến sang Đại Việt hòng đàn áp thẳng tay nhân dân ta. Và một khi việc
dùng binh thuận lợi, sẽ không có chuyện bạo chúa Chu Đệ khoan dung cho người Việt
bất cứ điều gì.
Tháng 2.1411, Trương Phụ lại lĩnh ấn “Chinh Di tướng quân” nhận lệnh
đem một đạo viện binh lớn tiến sang nước ta. Lực lượng quân Minh lần này bao gồm
binh mã của 6 đô ty Tứ Xuyên, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân Nam, Quý
Châu, cả thảy có 14 vệ quân. Theo quân chế nước Minh, 14 vệ quân sẽ có quân số
78.400 lính (mỗi vệ có 5.600 lính). Tuy nhiên, Minh Thực Lục lại chỉ chép có
2.400 lính. Nhiều khả năng sử nước Minh đã dùng thủ thuật quen thuộc là nói giảm
quân số để đề cao chiến công của tướng Minh, khỏa lấp thất bại nếu có khi đi
chinh phạt.
Dù đã hạ lệnh cho quân tiếp viện, nhưng việc gom quân, chuẩn bị cũng mất
hàng tháng trời. Bởi vậy, vua Minh vẫn dùng thủ đoạn dụ dỗ để che giấu đi lưỡi
gươm hiểm ác của mình. Tháng 3.1411, vua Minh xuống “chiếu dụ Giao Chỉ”:
“Trẫm nhận mệnh trời, cai trị muôn phương, vĩnh viễn che chở soi xét
tình cảnh kẻ dưới, lòng đầy sự thương yêu, sớm chiều canh cánh. Nghĩ rằng Giao
chỉ đã được sáp nhập vào bản đồ, nhưng suốt năm chưa được yên ổn nghỉ ngơi, sau
buổi khốn khó giặc giả bèn ban ân khoan hồng như sau :
- Kể từ ngày 24 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 9 trở về trước, những người
Giao Chỉ tụ tập trong núi rừng đều được xá tội, quân cho trở lại nguyên đơn vị,
dân trở lại với nghề cũ, quan lại quân dân phạm tội chưa bị phát giác cũng được
tha.
- Ngoài thuế lương thực, các loại thuế vàng, bạc, muối, sắt, cá, hoa quả
được miễn trưng thu trong vòng 3 năm. Vàng, bạc vẫn cấm không được khai thác
- Nội bộ trong dân được phép giao dịch bằng vàng, bạc, tiền đồng nhưng
không được đưa ra khỏi lãnh thổ.
- Những Thổ quan Giao Chỉ có tài năng rõ ràng về việc cai trị quân dân,
hãy tâu lên cho biết tên để thưởng cờ biển làm bằng. ”(theo Minh Thực Lục)
Như vậy là vua tôi nước Minh sau nhiều phen khốn đốn vẫn kiên quyết
không từ bỏ việc cướp nước ta. Việc binh đao giữa hai nước vẫn liên miên mãi
không ngừng vì dã tâm của giặc. Vua tôi nhà Hậu Trần lại phải đương đầu với một
cơn sóng dữ mới nữa.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét