ĐỪNG ĐỂ NGƯỜI TRUNG QUỐC “CƯỜI” CHÚNG TA
ĐỪNG ĐỂ NGƯỜI TRUNG QUỐC
“CƯỜI” CHÚNG TA
“CƯỜI” CHÚNG TA
LTS: Ngày 18-8, Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam giới thiệu, phát hành bộ Lịch sử Việt Nam bao quát nền lịch
sử nước ta từ khởi thủy đến năm 2000, do Viện Sử học Việt Nam biên soạn.
Một trong nhiều điểm mới của bộ
sách lịch sử quan trọng này là việc đề cập đến sự tồn tại của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa như một thực thể chính trị độc lập tại miền Nam Việt Nam.
Sự kiện này đã dấy lên những
tranh luận với các quan điểm khác nhau, Tiến sĩ Trần Công Trục gửi đến Báo Điện
tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích của ông nhìn từ góc độ pháp lý, lịch sử,
chính trị.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu đến
quý bạn đọc bài viết này và cảm ơn Tiến sĩ Trần Công Trục. Văn phong và nội
dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
-----------------------------------------------------------------------------
Báo Tuổi Trẻ hôm 20/8 đưa tin,
ngày 18-8-2017, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giới thiệu, phát hành bộ
Lịch sử Việt Nam bao quát nền lịch sử nước ta từ khởi thủy đến năm 2000 do Viện
Sử học Việt Nam biên soạn. [1]
Sự kiện này đã tạo ra “cơn bão”
dư luận người Việt Nam ở trong và ngoài nước, với những nhận định, đánh giá,
bình luận, thậm chí suy diễn…
Những bình luận này xuất phát từ
cách nhìn nhận khác nhau về mặt lịch sử, pháp lý, chính trị…đối với chính quyền
Việt Nam Cộng hòa đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam, giai đoan từ
năm 1954-1975.
Những
quan điểm khác nhau
Nhiều ý kiến đánh giá cao về bộ
Lịch sử Việt Nam do Viện Sử học Việt Nam chủ trì biên soạn, xuất bản.
Và một trong nhiều điểm mới của
bộ sách lịch sử quan trọng này là việc đã đề cập đến sự tồn tại của chính quyền
Việt Nam Cộng hòa như một thực thể chính trị độc lập tại miền Nam Việt Nam.
Bộ sách này đã thay cách dùng từ
“ngụy quyền Sài Gòn” trước đây bằng từ “Chính quyền Sài gòn”, thay "ngụy
quân" thành "quân đội Sài Gòn".
Trả lời phỏng vấn báo chí, Phó
giáo sư - Tiến sĩ Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Chủ tịch Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam, Tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam, đã
nói:
"Trước đây, khi nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hòa, mọi người
vẫn hay gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Nhưng chúng tôi từ bỏ không gọi theo
cách đó mà gọi là “chính quyền Sài Gòn”, “quân đội Sài Gòn".”
Nhân “sự kiện” có vẻ “đình đám”
này, một số học giả đã lên tiếng cho rằng việc thừa nhận này có lợi trước nhất
cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối vời quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa.
Thừa
nhận Việt Nam cộng hòa là bước tiến quan trọng…
Tiến sỹ Sử học Nguyễn Nhã khẳng
định rằng:
“... Thừa nhận Việt Nam cộng hòa,
Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về
văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực
hiện.
Đặc biệt như tôi đã phát biểu
trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam rằng giới
sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm.
Bất cứ nước nào tôn trọng giới học
thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát
triển”.
“Việc từ bỏ cách gọi "ngụy
quân", "ngụy quyền" và công nhận Việt Nam Cộng hòa như một chính
quyền độc lập là một bước tiến quan trọng trong việc hàn gắn những vết thương của
người Việt sau chiến tranh.
Mặt khác điều này có những tác động
tích cực đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, cụ thể là hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa bằng công pháp quốc tế.”
Tiến sĩ Dương Danh Huy, Quỹ
Nghiên cứu Biển Đông, đã đi sâu về mối quan hệ giữa sự công nhận một hay hai quốc
gia trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975 và lập luận pháp lý bảo vệ chủ quyền
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Các nghiên cứu này đã so sánh
các cách thức, quan điểm khác nhau và đi đến kết luận rằng việc công nhận hai
quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 có lợi trong việc tranh biện pháp
lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc…
Giáo sư James Crawford, chuyên
gia hàng đầu về công pháp quốc tế và là một thẩm phán tại Tòa án Công lý quốc tế,
trong tác phẩm “The Creation of States in International Law”, đã cho rằng Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai quốc gia.
Theo ông, việc Hiệp định Genève
1954 thiết lập hai vùng tập kết quân sự phải được xem như sự thiết lập hai quốc
gia.
Trên phương diện luật pháp cũng
như trên thực tế, lãnh thổ của mỗi quốc gia trên không phải là toàn bộ Việt
Nam…
Trong khi đó, trên truyền thông
và mạng xã hội cũng có những quan điểm không đồng tình với những nhận định nói
trên.
Thậm chí đã có những ý kiến tỏ
ra gay gắt, cực đoan, đòi thu hồi đốt bỏ bộ Lịch sử Việt Nam đồ sộ gồm 15 tập
này và đòi bắt giam sử gia nổi tiếng Phan Huy Lê, người chủ biên bộ Lịch sử Việt
Nam mới tái bản lần đầu này.
Họ cho rằng các sử gia tham gia
biên soạn bộ Lịch sử này đã không kiên định lập trường giai cấp, thiếu ý thức
chính trị khi dám “thừa nhận bọn bù nhìn bán nước, tay sai của đế quốc Mỹ,
đã từng gây nên cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn, làm cho Nước nhà chia
cắt, phân ly…”
Điều đáng quan ngại hơn là có một
bộ phận người Việt Nam ở trong và ngoài nước đã lợi dụng sự kiện này để bôi nhọ
chế độ chính trị hiện hành, công khai hô hào dân chúng đứng lên lật đổ chính thể
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đòi phục dựng thể chế Việt Nam Cộng hòa,
gây bạo động, bạo loạn, phá hoại nền an ninh quốc gia, sự ổn định chính trị xã
hội…
Là một người nghiên cứu pháp
lý-chính trị, chúng tôi xin được nêu quan điểm cá nhân của mình.
Chúng tôi chỉ mong có thể góp sức
tạo lập được tiếng nói chung, nhận thức chung trong nội bộ người Việt Nam trước
tình hình kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng…của đất nước, cục diện
khu vực và quốc tế đang diễn biến hết sức phức tạp, nhạy cảm…
Cần
phân biệt rõ ràng về lập trường chính trị và quan điểm pháp lý
Đây là điều cực kỳ quan trọng để
xem xét, đánh giá các sự kiện lịch sử có liên quan đến sự ra đời, tồn tại của
Nhà nước qua các thời kỳ lịch sử nhân loại nói chung và của một quốc gia nói
riêng.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt
nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống
trị trong xã hội.
Những nội dung cơ bản ban đầu về
học thuyết này được phản ánh thông qua tác phẩm: "Nguồn gốc của gia
đình, chế độ sở hữu và của nhà nước" của Ph.Ăng-ghen.
Qua tác phẩm này, Ăng-ghen đã
phân tích các vấn đề về gia đình, nguồn gốc của giai cấp và của nhà nước và những
quy luật tiếp tục phát triển và biến đổi sau này của chúng.
Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng nhà
nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội trên cơ sở xuất hiện
chế độ tư hữu và gắn liền với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối
kháng.
Ông cũng luận chứng về tính chất
giai cấp và tính lịch sử của nhà nước, làm sáng tỏ chức năng giai cấp cơ bản của
nhà nước. [2]
Căn cứ vào luận thuyết này
thì nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp đối kháng và vì vậy, nó là
một phạm trù lịch sử, có thể xuất hiện, thay đổi, thậm chí bị xóa sổ bởi kết quả
của các cuộc đấu tranh tranh giành quyền lực thống trị xã hội giữa các giai cấp
đối kháng.
Trong cuộc đấu tranh này, để
giành thắng lợi, các đảng phái chính trị, đại diện cho các tầng lớp giai cấp,
phải sử dụng mọi biên pháp cần thiết nhằm lật đổ, tiêu diệt giai cấp đối kháng,
cũng như các tổ chức thực thi quyền lực của giai cấp thống trị đó.
Vì vậy, về mặt chính trị, chúng
ta không quá ngạc nhiên khi đảng phái chính trị của giai cấp này lên án, tố
cáo, bôi nhọ… nhằm hạ thấp uy tín của đảng phái chính trị của giai cấp kia trước
công chúng:
Những chiến sỹ Cộng hòa trong cuộc
cách mạng Dân chủ Tư sản đã từng lên án thậm tệ bọn tham quan ô lại của chế độ
quân chủ độc tài.
Những chiến sỹ Cộng sản đã vùng
lên, tập họp dân chúng cần lao để “đào mồ” chôn chủ nghĩa tư bản và gia cấp
tư sản thống trị mục nát.
Và ngược lại, giai cấp thống trị,
để bám giữ ngôi vị thống trị, họ đã không tiếc lời bôi nhọ những người Cộng
hòa, chiến sỹ Cộng sản…và điên cuồng chống trả bằng nhiều thủ đoạn, phương thức
man rợ…
Đó là sự thật lịch sử, là quy luật
phát triển của xã hội loài người. Nhân loại đã chứng kiến những bi kịch lịch sử
đó.
Cụm từ “chính quyền bù
nhìn”, “chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ” được dùng để gọi chính quyền
Sài Gòn trước đây hay ngược lại, “Việt Cộng”, “ Chính quyền tay sai của
Nga- Xô, Trung- Cộng” để gọi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng
chính là sản phẩm của tư duy chính trị mấy chục năm về trước, nay đã lỗi thời.
Chúng tôi không có ý áp đặt quan
điểm của mình lên người khác.
Chỉ có điều, nếu thực sự vì quốc
gia và dân tộc, tất cả đều phải được đánh giá một cách khách quan, khoa học về
những chính thể đã từng tồn tại trong các giai đoạn lịch sử.
Phủ nhận sạch trơn hay ca ngợi một
chiều chỉ có thể làm cho sự vật phát triển lệch lạc, thậm chí cản trở xu hướng phát
triển tiến bộ của lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, xét về mặt pháp lý,
người ta không thể dùng ý chí chính trị để phủ nhận sự tồn tại khách quan của một
thể chế chính trị đã được cộng đồng quốc tế chính thức thừa nhận, với tư cách
là một thực thể trong quan hệ quốc tế:
Năm 1954, Hiệp định
Genève được ký kết, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền do 2 chính quyền hợp
pháp quản lý.
Ở miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở
vào quyền quản lý lãnh thổ và dân cư được trao cho các chính thể, lúc đầu là
chính quyền Quốc gia Việt Nam.
Tiếp đến là chính quyền Việt Nam
Cộng hòa và từ năm 1975 đến năm 1976 là Chính quyền Cách mạng lâm thời Cộng hòa
niềm Nam Việt Nam.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam là chính phủ hợp pháp được ra đời từ thắng lợi của cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Cách mạnh niền Nam
Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Thắng lợi của đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân miền Nam Việt Nam là đã lật đổ chính thể Việt Nam Cộng
hòa, và lập ra một cách hợp pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam.
Tính chính danh của chính thể Việt
Nam Cộng hòa về mặt đối nội và đối ngoại đã bị xóa bỏ hoàn toàn ngay sau khi Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, ngày
30/4/1975.
Từ thời khắc lịch sử đó, Việt
Nam Cộng hòa chỉ còn được nhắc đến như là một thể chế chính trị của quá khứ, giống
như các chính thể khác của các chế độ phong kiến, thực dân đã từng tồn tại
trong lịch sử Việt Nam…
Ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở
ra, quyền quản lý lãnh thổ, dân cư được trao cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1976.
Ngày 02 tháng 07 năm 1976, tại kỳ
họp thứ nhất, Quốc hội khóa 6 (1976-1981), Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất
được bầu vào ngày 25 tháng 4 năm 1976, đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đã và đang là một chủ thể hợp hiến, hợp pháp, duy nhất trong
quan hệ đối nội và đối ngoại dưới ánh sáng của Luật pháp quốc tế.
Từ thời điểm lịch sử này, Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam cũng đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử và trở thành các chính thể của quá
khứ.
Những sự kiện chính trị, pháp lý
nói trên phải được các sử gia chân chính ghi nhận một cách trung thực khách
quan trong các bộ lịch sử Việt Nam.
Việc dùng tên gọi “chính quyền
Sài Gòn”, “Việt Nam Cộng hòa” thay vì tên gọi mang nặng màu sắc chính trị:
“chính quyền bù nhìn” hay “ngụy quân, ngụy quyền” là một việc làm rất cần thiết.
Điều này phản ánh một tư duy
khoa học, khách quan, trung thực, tiến bộ của các sử gia Việt Nam, đáng được
trân trọng, hoan nghênh.
Vì vậy, chúng tôi không đồng
tình với ai đó đòi “đốt bỏ” bộ lịch sử đồ sộ và có giá trị khoa học này chỉ để
thỏa mãn cảm xúc cá nhân, theo đuổi tư duy chính trị đơn thuần.
Đồng thời chúng tôi cũng xin nhấn
mạnh rằng, nếu ai đó muốn lợi dụng sự kiện này để làm “sống lại” một chính thể
của quá khứ, đã không còn tồn tại cả trên danh nghĩa và thực tế, bởi cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc hợp lý, hợp tình của đồng bào miền Nam chỉ là một ảo
tưởng.
Thậm chí còn là một hành vi vi
phạm Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vi phạm luật pháp Việt
Nam và luật pháp quốc tế, chắc chắn họ sẽ bị trừng trị theo đúng Luật pháp hiện
hành của Nhà nước Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên, Nhà nước
là một phạm trù lịch sử. Sự ra đời, tồn tại hay bị phế bỏ cũng là điều hoàn
toàn theo đúng quy luật phát triển của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch
sử.
Một Nhà nước muốn tồn tại lâu
dài phải là một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, một chính phủ “liêm
khiết, kiến tạo và hành động vì lợi ích của dân chúng”.
Ngược lại, sẽ có những bi kịch
có thể xảy ra có liên quan đến sự đổi thay mang tính tất yếu lịch sử.
Điều này đã được chính cụ Nguyễn
Trãi tổng kết: “đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời vẫn thường căn dặn.
Người
Trung Quốc đang “cười” chúng ta ?
Sở dĩ chúng tôi phải lên tiếng
là vì dư luận người Việt ta đang chia rẽ, nhưng những kẻ đang dòm ngó chúng ta
ngoài Biển Đông thì lại đang “mở cờ trong bụng”.
Bài viết này không chỉ nhằm mục
đích góp thêm tiếng nói để người Việt chúng ta, trong cũng như ngoài nước ngồi
lại với nhau, bình tĩnh nhìn lại quá khứ và chung lòng hướng tới tương lai của
Đất Nước Việt Nam, bao gồm Đất, Biển, Trời, liền một giải, rộng dài và giàu đẹp.
Những gì mà chúng tôi đã đề cập ở
trên có lẽ đã đủ để trả lời những vấn đề nhà Việt Nam học Tư Trấn Đào từ Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á - Trung Quốc đặt ra trong bài phân tích đăng trên Thời
báo Hoàn Cầu ngày 30/8, với tiêu đề khiến chúng tôi không thể im lặng:
"Việt
Nam sửa đổi lịch sử là tự đào hố chôn mình". [3]
Nếu ông Tư Trấn Đào là một nhà
khoa học với đúng nghĩa của nó, hi vọng ông tự nhận ra được những sai lầm trong
cách lý giải mang đậm màu sắc chính trị, duy lý và ngụy biện được thể hiện
trong bài viết này.
Thực ra, những lập luận nói trên
của nhà Việt Nam học Tư Trấn Đào không có gì là mới lạ cả.
Bởi vì, mỗi khi nhắc đến giai đoạn
Việt Nam Cộng hòa quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa chờ ngày tổng tuyển cử
theo Hiệp định Genève, kiểu gì cũng sẽ xuất hiện những luận điệu như vậy trên
các phương tiện truyền thông Trung Quốc.
Điều đáng nói là, mặc dù những lập
luận của ông Tư Trấn Đào chỉ là một thủ thuật “chơi chữ”, nhưng nếu người Việt
chúng ta vẫn còn sống với tư duy và cách nghĩ của mấy chục năm về trước, thì đã
vô tình mắc bẫy những người như ông Tào.
Và một điều đáng lưu ý nữa, là
bài phân tích của nhà Việt Nam học này chỉ xoáy vào câu chuyện cách gọi Việt
Nam Cộng hòa trong bộ Lịch sử Việt Nam.
Trong khi đó, sự kiện Trung Quốc
xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 và gây xung đột kéo
dài 10 năm sau đó, lần đầu tiên được gọi tên đúng với bản chất của nó là “xâm
lược”, ông Đào chỉ lướt qua.
Thậm chí nhà nghiên cứu này còn
dùng tên gọi trung tính để nhắc tới sự kiện Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm
1979 mà bộ Lịch sử Việt Nam mới trả lại đúng tên cho nó, là "xung đột
vũ trang biên giới Trung - Việt 1979".
Biểu hiện này khác hoàn toàn
thái độ bóp méo lịch sử trên truyền thông chính thống Trung Quốc lâu nay, khi gọi
cuộc chiến xâm lược này là "phản kích tự vệ".
Đó là điều khiến chúng tôi phải
suy nghĩ. Liệu đây có phải là một sự đổi thay trong nhận thức và chiến lược
tuyên truyền của Trung Quốc?
Còn sự thay đổi của cá nhân ông
Tư Trấn Đào trong cách "định danh" cuộc chiến cần phải đặt trong bối
cảnh và mục tiêu tổng thể bài viết:
Tiếp tục chia rẽ dư luận Việt
Nam bằng cách khoét sâu mâu thuẫn nội tại của quá khứ mấy chục năm về trước, để
chứng minh cho yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường
Sa của Việt Nam.
Và chúng tôi cũng xin lưu ý thêm
với ông Đào, với tư cách một nhà nghiên cứu khoa học, thì ông nên lý giải như
thế nào về việc:
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
bê nguyên đường “lưỡi bò” của "ngụy quân, ngụy quyền" Trung Hoa Dân
quốc về làm của mình, để đòi độc chiếm Biển Đông với lập luận đó là “sự kế thừa
chủ quyền lịch sử”?
Vì thế, chúng tôi thiết tha mong
muốn đồng bào người Việt mình, trong cũng như ngoài nước, hiểu rằng quá khứ đã
qua và không thể thay đổi.
Nhưng hiện tại và tương lai như
thế nào là nằm trong tay mỗi chúng ta.
Hòa giải, hòa hợp và đoàn kết
thì dân tộc mới trường tồn, chia rẽ bè cánh sẽ đẩy chúng ta đến bờ vực, đến
hang hùm miệng rắn.
Tiến sĩ Trần Công Trục
Tài liệu tham khảo:
[2]Lược khảo lịch sử tư tưởng xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, tập II, Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Đức Bách,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1994, trang 78.
Nhận xét
Đăng nhận xét