TRÍ MẠNG hay CHÍ MẠNG?


TRÍ MẠNG hay CHÍ MẠNG?

Để tìm hiểu từ “trí mạng” và “chí mạng”, chúng ta cần dựa vào những từ điển có uy tín.

Trong Đại Nam quấc âm tự vị xuất bản năm 1895 của Huình Tịnh Của có tiếng trí với nghĩa “đến, tột, liều” và có từ trí mạng với câu trích “kiến nguy trí mạng” có nghĩa là “(thấy nguy) liều mạng sống”.

Trong Hán-Việt Tự-điển xuất bản lần đầu năm 1932 của Đào Duy Anh có từtrí mệnh được giải nghĩa là “đem cả tính mệnh mình vào việc đó”.

Trong Việt Nam tự điển (1970) của Lê Văn Đức, do Lê Ngọc Trụ hiệu đính, cũng có từ trí mạng với câu trích “kiến nguy trí mạng” (thấy nguy liều chết). Không thấy từ chí mạng trong ba từ điển này.

Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) bản in 1992 có cả chí mạng và trí mạng với dữ liệu “đánh một đòn trí mạng”, “đánh nhau trí mạng” nghĩa là đánh nhau không kể gì tới nguy hiểm tính mạng, nhưng để hiểu chí mạng Hoàng Phê lại dẫn tới trí mạng.

Vậy là TRÍ MẠNG đã được dùng từ rất lâu rồi.

Nhưng xã hội dần dần có khuynh hướng dùng CHÍ MẠNG.

Xảy ra khuynh hướng này do áp lực ngữ nghĩa của hàng loạt từ có yếu tố chí với nghĩa “điều sắp nêu ra là điểm tận cùng của sự việc”, “biểu thị mức độ cao nhất” của hiện tượng được đề cập: Chạy chí chết mà không kịp; Bạn chí cốt là bạn hết sức gắn bó nhau; Cũng vậy với bạn chí thân, chí thiết; Lời khuyên chí tình là lời khuyên rất mực chân thành; Giáng đòn chí tử cũng là giáng đòn trí mạng...

Nói cách khác, trí mạng đồng nghĩa với chí tử, nhưng chỉ có một cách viết chí tử. Do đó cũng hình thành cách viết chí mạng.

Điều gì được xã hội chấp nhận thì cần được coi là chuẩn mực. Do vậy trí mạng cũng là chí mạng.

​​​​​​​​NGUYỄN ĐỨC DÂN


Nhận xét

Bài đăng phổ biến