BỎ RƠI VIỆT NAM:-40-NIXON ĐE DOẠ THIỆU VÀ TỨC GIẬN BÁC VIỆT

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
40-NIXON ĐE DOẠ THIỆU 
& TỨC GIẬN BẮC VIỆT

Vào ngày 23 tháng 11, Nixon gửi cho Thiệu một lá thư khác, hứa sẽ “thực hiện một hành động mạnh mẽ đối với Bắc Việt trong trường hợp họ phá vỡ thỏa thuận”, nhưng cảnh báo ông rằng các thượng nghị sĩ hàng đầu của Hoa Kỳ, bao gồm nhiều người từ chính đảng của tổng thống, vốn luôn ủng hộ mạnh mẽ chính sách của chính quyền về Việt Nam, “không chỉ nhất trí mà còn kịch liệt tuyên bố kết luận của họ rằng, nếu Sài Gòn là rào cản duy nhất để đạt được thỏa thuận… họ sẽ đích thân lãnh đạo cuộc chiến khi Quốc hội mới họp lại vào ngày 3 tháng 1 bằng cách cắt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho Sài Gòn”. Ông thúc giục Thiệu không nên trì hoãn tiến độ đàm phán thêm nữa, nói rằng, “Nếu ông không cùng chúng tôi ký kết một thỏa thuận thỏa đáng… ông phải hiểu rằng tôi buộc sẽ tiến hành bằng mọi giá.”
 
Vào ngày 29 tháng 11, Nixon đã gặp Nguyễn Phú Đức tại Nhà Trắng. Là đại diện cá nhân của Thiệu tại các cuộc đàm phán ở Paris, ông đã trình một lá thư dài 14 trang từ Thiệu nêu lại tất cả những phản đối của ông đối với giải pháp được đề xuất và yêu cầu một hội nghị thượng đỉnh Thiệu-Nixon trước khi bất kỳ thỏa thuận nào được ký kết với Hà Nội. Nixon đã thẳng thừng từ chối và nhắc lại với Đức những cảnh báo và đảm bảo tương tự mà ông đã nhiều lần gửi đến Thiệu. Ông nhấn mạnh đã đến lúc Sài Gòn phải “đối mặt với thực tế” rằng nếu giải pháp không được thực hiện tại phiên họp tiếp theo theo lịch trình vào ngày 4 tháng 12, Quốc hội khóa 93 sẽ nhận định là Thiệu đã ngăn cản một thỏa thuận hòa bình và sẽ chấm dứt chiến tranh bằng cách cắt giảm các khoản phân bổ. Tuy nhiên, Nixon đã trấn an Đức rằng nếu Thiệu đồng ý với giải pháp, Hoa Kỳ sẽ trả đũa mạnh mẽ nếu Bắc Việt vi phạm thỏa thuận hòa bình.
 
Nhưng những lời hứa của Nixon không trấn an được Thiệu.  Thiệu biết rõ rằng Quốc hội Mỹ có thể cắt nguồn tài trợ bất cứ lúc nào, để miền Nam  bị cô lập  và tự giải quyết với Bắc Việt. Do đó, Thiệu ít có khuynh hướng nhượng bộ hơn Nixon và Kissinger, những người chỉ muốn chiến tranh kết thúc và Hoa Kỳ rời khỏi Đông Nam Á. Trong bài phát biểu trước Quốc hội VNCH, ông nói rằng nếu quân đội Bắc Việt được phép ở lại miền Nam, thì “việc sáp nhập miền Nam  thông qua các biện pháp quân sự và chính trị chỉ là vấn đề thời gian”. Ông nói thêm rằng Việt Nam Cộng hòa “không ngần ngại tiếp tục chiến đấu, nhưng cần được hỗ trợ”. Ông kết luận, nói rằng “cách đơn giản nhất để đạt được hòa bình là khiến Bắc Việt chấm dứt chiến tranh xâm lược ở miền Nam. Chúng ta không đòi hỏi rằng chiến tranh kết thúc bằng chiến thắng… mà chỉ trong công lý và với tính chính nghĩa tối thiểu, nghĩa là, người bị xâm lược phải không còn bị xâm lược và kẻ xâm lược phải về nhà”.  Một điểm gây tranh cãi đã được tạo ra bởi những ý tưởng hoàn toàn khác nhau của Nixon và Thiệu về “hòa bình” ở miền Nam : Nixon muốn Hoa Kỳ rời khỏi Đông Nam Á theo cách “danh dự”, nhưng Thiệu lo lắng về sự tồn vong của quốc gia mình.
 
Một ngày sau cuộc gặp với Nguyễn Phú Đức, Nixon đã gặp Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Ông muốn các vị tham mưu trưởng giúp ông thuyết phục người dân Mỹ rằng thỏa thuận mà Kissinger đang đàm phán ở Paris tương đương với một chiến thắng của Mỹ. Ông cũng muốn họ hỗ trợ để trấn an Thiệu rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng nếu Bắc Việt vi phạm thỏa thuận.  Đô đốc Elmo Zumwalt, chỉ huy các hoạt động hải quân, sau đó đã viết rằng Nixon đã cảnh báo họ không được để người dân Mỹ biết về những lời hứa bí mật của ông là sẽ ủng hộ miền Nam  sau lệnh ngừng bắn, bởi vì tổng thống muốn công chúng tin rằng thỏa thuận này “có nghĩa là chấm dứt mọi sự can dự của Mỹ vào Việt Nam bất kể điều gì xảy ra sau lệnh ngừng bắn”. Nixon sau đó bảo Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân bắt đầu chuẩn bị kế hoạch dự phòng cho một cuộc ném bom miền Bắc mới nếu các cuộc đàm phán tiếp tục bế tắc, nhưng trong mọi trường hợp, họ không được lên kế hoạch sử dụng lực lượng bộ binh Hoa Kỳ.
 
Cách tiếp cận của tổng thống trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam đã đặt Kissinger vào một vị thế gần như không thể bảo vệ được. Bản thân Nixon đã mô tả tình hình đó: “Kissinger không chỉ phải thuyết phục Bắc Việt rằng chúng ta sẽ ở lại và tiếp tục chiến đấu trừ khi họ đồng ý giải quyết, mà còn phải thuyết phục miền Nam  rằng chúng ta sẽ ngừng chiến đấu và rút lui trừ khi họ đồng ý giải quyết.” Làm như vậy trở thành một đề xuất ngày càng khó khăn. Kissinger bay trở lại Paris để gặp Bắc Việt. Lê Đức Thọ khai mạc cuộc họp vào ngày 4 tháng 12 bằng cách bác bỏ các đề xuất của Kissinger và yêu cầu Hoa Kỳ chấp nhận dự thảo hiệp định tháng 10 như đã viết. Sau một tuần đàm phán không có hồi kết, Bắc Việt đã đưa ra những yêu cầu mới của riêng họ dưới hình thức một bộ “giao thức” có chứa 16 thay đổi đối với văn bản gốc. Theo Kissinger, các giao thức này “mở lại toàn bộ danh sách các vấn đề đã được giải quyết, hoặc chúng tôi nghĩ là đã được giải quyết trong thỏa thuận. Chúng bao gồm các điều khoản không có trong thỏa thuận ban đầu và chúng loại trừ các điều khoản có trong văn bản gốc.”
 
Các cuộc đàm phán quay trở lại vạch xuất phát. Có rất ít bằng chứng giải thích tại sao Hà Nội lùi bước trong các cuộc đàm phán vào phút cuối, nhưng Bắc Việt có thể muốn trì hoãn việc ký kết vì một số lý do. Không đạt được mục tiêu ký kết thỏa thuận trước cuộc bầu cử của Hoa Kỳ, Hà Nội có rất ít động lực (ít nhất là ban đầu) để đẩy nhanh quá trình này. Ngoài ra, việc tiếp tục trì hoãn việc ký kết có thể có lợi cho Bắc Việt bằng cách nới rộng rạn nứt ngày càng tăng giữa Washington và Sài Gòn.  Với bài phát biểu “hòa bình trong tầm tay” của Kissinger, dư luận ở Hoa Kỳ có thể buộc Nixon phải đạt được một nền hòa bình riêng với Hà Nội nếu Thiệu vẫn ngoan cố. Cuối cùng, Bắc Việt càng trì hoãn lâu thì họ càng có nhiều cơ hội tiếp tế và bổ sung cho các đơn vị của mình ở miền Nam. Tất cả những lý do này chắc chắn đã đóng một vai trò nào đó trong quá trình ra quyết định của Hà Nội. Bất kể lý do chính xác là gì, các cuộc đàm phán đã bế tắc. Không bên nào chịu nhượng bộ, và vào ngày 13 tháng 12, Lê Đức Thọ đã bỏ cuộc đàm phán, nói rằng ông cần phải quay lại Hà Nội để tham vấn.
 
Kissinger trở về Washington để báo cáo với tổng thống. Theo Nixon, Kissinger đã rất tức giận với Bắc Việt: “Chúng chỉ là một lũ khốn nạn. Những kẻ khốn nạn, bẩn thỉu. Chúng khiến cho người Nga trông có vẻ tử tế hơn nhiều.” Tổng thống, tức giận và thất vọng, đã gửi cho Hà Nội một tối hậu thư để bắt đầu “nói chuyện” nghiêm túc trong 72 giờ hoặc phải chịu “hậu quả nghiêm trọng”. Như người viết tiểu sử của Nixon Stephen Ambrose đã chỉ ra, “Bởi vì ông ấy [Nixon] là một Tổng thống thất vọng, nên ông ấy là một Tổng thống nguy hiểm”.  Nixon đã nói với Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân chuẩn bị thực hiện các kế hoạch trước đó về các cuộc không kích lớn nhằm vào Bắc Việt. Ông đã dỡ bỏ mọi hạn chế và yêu cầu họ chuẩn bị tấn công các bãi xe lửa, nhà máy điện, các máy phát vô tuyến ở Hà Nội, các bến tàu và xưởng đóng tàu ở Hải Phòng.
 
Vào ngày 16 tháng 12, Kissinger đã ra tuyên bố, nói rằng thỏa thuận hòa bình đã hoàn thành “99 phần trăm” nhưng đổ lỗi cho Bắc Việt về việc không hoàn tất thỏa thuận. Ông cảnh báo rằng “chúng ta sẽ không bị tống tiền để đạt được thỏa thuận. Chúng ta sẽ không bị ép buộc phải đạt được thỏa thuận, và…  chúng ta sẽ không bị dụ dỗ vào một thỏa thuận cho đến khi các điều kiện của nó là đúng đắn.” Nguyễn Thanh Lý, người phát ngôn của Bắc Việt tại Paris, phản hồi lại các cáo buộc của Kissinger, nói rằng “hoàn toàn không đúng” khi Bắc Việt đã yêu cầu thay đổi thỏa thuận và tuyên bố thêm rằng “nếu Hoa Kỳ thực sự muốn giải quyết Chiến tranh Việt Nam một cách hòa bình… thì Hoa Kỳ nên ký thỏa thuận đã thỏa thuận mà không chậm trễ và không có bất kỳ thay đổi nào.” Tại một cuộc họp báo ngày 19 tháng 12 tại Paris, Xuân Thủy tuyên bố, “Việc phía Hoa Kỳ cố tình bóp méo sự thật liên quan đến các cuộc họp riêng kể từ ngày 20 tháng 11 năm 1972, nhằm mục đích đánh lừa dư luận Hoa Kỳ và thế giới, trong một nỗ lực để đổ lỗi cho VNDCCH.  và che giấu âm mưu độc ác của Hoa Kỳ là tăng cường ném bom Bắc Việt, tiếp tục chính sách Việt Nam hóa ở miền Nam, sử dụng vũ lực quân sự để buộc người dân Việt Nam chấp nhận các điều khoản do Hoa Kỳ áp đặt.” Rõ ràng là hòa bình không ở trong tầm tay.
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến